Trò chơi tư duy trực quan sơ đồ

CÔNG TRÌNH DỰ THIGIẢI THƢỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”NĂM 2007Tên công trình:NGHIÊN CỨU TƢ DUY TRỰC QUAN SƠ ĐỒ CỦATRẺ 5 - 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƢỜNG MẦM NON TẠITHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHThuộc nhóm ngành: XH1aCÔNG TRÌNH DỰ THIGIẢI THƢỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”NĂM 2007Tên công trình:NGHIÊN CỨU TƢ DUY TRỰC QUAN SƠ ĐỒ CỦATRẺ 5 - 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƢỜNG MẦM NON TẠITHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHThuộc nhóm ngành: XH1aTÓM TẮT CÔNG TRÌNH1. Nghiên cứu lý luậnNghiên cứu và làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản có liên quan đến đề tài như:Tư duy, tư duy trực quan hình tượng, tư duy trực quan sơ đồ, sơ đồ, hình ảnh, biểu tượng,biểu tượng không gian, trực quan, mô hình trực quan.2. Điều tra thực trạngCông trình sử dụng trắc nghiệm L.A. Venger để đo mức độ tư duy trực quan sơ đồcủa trẻ và được tiến hành trên 100 trẻ 5 - 6 tuổi được chọn ngẫu nhiên từ hai trường mầm nonBông Sen,quận Tân Phú và trường mầm non bán công Bến Thành, quận I, thành phố Hồ ChíMinh.Điều tra 13 giáo viên (trong đó có 2 hiệu phó chuyên môn), phỏng vấn 17 phụ huynhhọc sinh và tìm hiểu môi trường, điều kiện học tập của trẻ để tìm ra nguyên nhân thực trạng.3. Thực nghiệm hình thànhSau khi tiến hành cho 100 trẻ được chọn làm mẫu nghiên cứu thực trạng tư duy trựcquan sơ đồ làm trắc nghiệm L.A. Venger và thu, xử lý kết quả, người nghiên cứu đã chọn 30trẻ để tiến hành thực nghiệm hình thành bằng hệ thống bài tập thực nghiệm do người nghiêncứu tự biên soạn được tiến hành dưới hình thức trò chơi cho trẻ.11. ĐẶT VẤN ĐỀĐối tượng nghiên cứu: TDTQSĐ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tạiTP.HCM.Vấn đề tư duy của trẻ đã được nhiều nhà tâm lý học trong và ngoài nước quan tâm vàđã tạo dựng nên được một nền tâm lý học trẻ em đồ sộ. Riêng vấn đề tư duy trực quan sơ đồcũng được nhiều tác giả đề cập đến ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng nghiên cứu chuyênbiệt về vấn đề này thì chỉ có công trình của L.A. Venger. Và sau này, Trần Xuân Hương cũngdựa trên nền tảng của công trình nghiên cứu của L.A. Venger để tiến hành nghiên cứu. Vàtrong công trình nghiên cứu về tư duy trực quan sơ đồ mới nhất của Trần Xuân Hương vàonăm 1994, tác giả chủ yếu nghiên cứu về "con đường hình thành tư duy trực quan sơ đồ củatrẻ". Vì vậy mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tạithành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn là một ẩn số.2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ2.1. Mục tiêu của công trìnhNghiên cứu TDTQSĐ của trẻ 5- 6 tuổi ở một số trường mầm non tại TP.HCM, từ đóđề xuất một số biện pháp nhằm phát triển TDTQSĐ cho trẻ.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích tài liệu và tổng hợp tài liệu.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:2* Phương pháp chính:- Trắc nghiệm: Dùng bài tập trắc nghiệm L.A. Venger để đánh giá mức độ phát triểnTDTQSĐ của trẻ.- Thực nghiệm hình thành: xây dựng một hệ thống bài tập gồm 3 bài tập cho trẻ nhằmthực nghiệm hình thành theo 2 hướng thao tác sơ đồ hóa và đọc hiểu sơ đồ. Sau đó, dùng bàiđo nghiệm để đánh giá số liệu định lượng cho các vấn đề định tính mà bài đo nghiệm đặt ra.* Phương pháp hỗ trợ:- Quan sát:+ Quan sát trong lúc trẻ làm trắc nghiệm và trong giờ học của trẻ nhằm giúp việc đánhgiá được khách quan và chính xác.+ Quan sát trẻ trong quá trình thực nghiệm để góp phần đánh giá tính phù hợp của bàithực nghiệm.- Điều tra:+ Phỏng vấn trẻ để kiểm tra độ chính xác của bài trắc nghiệm.+ Dùng bảng câu hỏi cho giáo viên.+ Phỏng vấn phụ huynh học sinh.2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows 11.5.2.3. Nội dung nghiên cứu2.3.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:2.3.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài2.3.2.1. Sự phát triển tư duy của trẻ em2.3.2.2. Tư duy trực quan hình tượng của trẻ 5 - 6 tuổi32.3.2.3. Tư duy trực quan sơ đồ 2.3.3. Tổ chức nghiên cứu2.3.3.1. Nghiên cứu về lý luận2.3.3.2. Điều tra thực trạng2.3.3.3. Thực nghiệm tác động sư phạm2.4. Kết quả nghiên cứu2.4.1. Kết quả nghiên cứu lý luận:Đến giai đoạn 5-6 tuổi, ở trẻ xuất hiện một loại hình tư duy trực quan hình tượng mới- đó chính là tư duy trực quan sơ đồ. Tư duy trực quan sơ đồ là một quá trình tư duy trong đónhiệm vụ trí tuệ được thực hiện bằng các thao tác bên trong với các sơ đồ hình thành cácchức năng kí hiệu tượng trưng, phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan của sự vậthiện tượng trong không gian.Tư duy trực quan sơ đồ là loại tư duy trung gian để chuyển từ tư duy trực quan hìnhtượng lên kiểu tư duy mới khác về chất - tư duy logic.2.4.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻmẫu giáo 5-6 tuổi ở trường MNBS và trường MNBCBT, TP.HCM2.4.2.1. Kết quả mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi tại trường MNBS vàtrường MNBCBT, TP.HCMSau khi cho trẻ thực hiện trắc nghiệm L.A. Venger và quan sát, phỏng vấn trẻ trongquá trình làm trắc nghiệm để loại bỏ những đáp án mang tính chọn lựa ngẫu nhiên của trẻ(Những đáp án được xem là chọn lựa ngẫu nhiên của trẻ là những đáp án mà trẻ có được làdo chọn đại,4chọn theo bạn mà không hề dựa vào "chìa khóa" của sơ đồ hoặc chỉ dựa vào mốc định hướngcuối cùng của "chìa khóa". Ví dụ như ở bài tập số 5, hễ trẻ thấy ở ngôi nhà nào có hàng rào làtrẻ chọn hoặc bài tập 6, trẻ thấy ngôi nhà nào có trái táo là trẻ chọn chứ trẻ không bắt đầu từmốc định hướng đầu tiên của "chìa khóa"), người nghiên cứu thu được kết quả sau:Bảng 2.4.1: Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của mỗi trẻTổngNĐiểm TBĐLTC10025.918.91Theo bảng 2.4.1, ta thấy điểm TB 10 bài tập của mỗi trẻ là 25.91. Như vậy, trẻ 5 - 6tuổi ở trường MN có tư duy trực quan sơ đồ ở đầu mức độ 4 nghĩa là trẻ chỉ có thể dựa vào 1dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ chứ chưa có khả năng định hướng đượctheo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết được các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉlàm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuốithì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu. Kết quả này phù hợp với giả thuyết ban đầu của ngườinghiên cứu. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻtừ phía giáo viên, người nghiên cứu nhận thấy hầu hết giáo viên ở hai trường này chưa có cơsở lý luận về tư duy trực quan sơ đồ của trẻ và chưa đưa sự phát triển tư duy trực quan sơ đồcủa trẻ vào mục tiêu dạy học nên trong bài dạy không chú ý đến vấn đề phát triển tư duy trựcquan sơ đồ cho trẻ . Chính vì vậy mà trong các tiết học của trẻ mà người nghiên cứu đã thamdự, thay vì có thể lồng ghép nội dung phát triển TDTQSĐ cho trẻ thì các giáo viên đã bỏ qua.Điển hình như trong bài "Cả nhà thương nhau", giáo5viên có thể lồng ghép nội dung TDTQSĐ bằng cách xây dựng các biểu tượng và vẽ một sơ đồchỉ dẫn đường đến nhà "tiến sĩ mặt trời"... Và sự thiếu hụt tri thức về TDTQSĐ của các giáoviên ở trường mầm non còn được thể hiện rõ qua các câu trả lời của giáo viên khi được phỏngvấn như: "Tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố nào?" thì một sốgiáo viên trả lời là "phụ thuộc vào tư duy của trẻ", có người lại cho rằng tư duy trực quan sơđồ của trẻ "phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố ghi nhớ có chủ định của trẻ" và còn có giáo viên trảlời rằng "tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc vào chính năng lực của đứa trẻ"; "phụthuộc vào yếu tố thi đua"... hoặc khi được hỏi về "những biện pháp mà nhà trường đã sử dụngđể phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ?" thì câu trả lời là "cung cấp kiến thức để trẻ tiếpthu tự nhiên qua hoạt động chung và hoạt động vui chơi"; có giáo viên lại trả lời là "Nhữngcâu hỏi mở" và một số giáo viên thì trả lời rằng "thông qua các hoạt động vui chơi của trẻ"mà trẻ có thể phát triển tư duy trực quan sơ đồ... Và khi được đề nghị đề xuất ý kiến nhằmgiúp trẻ phát triển TDTQSĐ thì các giáo viên cũng thừa nhận rằng: do các chương trình giáodục mầm non chưa thực sự đưa nội dung này (TDTQSĐ) vào chương trình nên giáo viên ítcó hiểu biết và nghèo nàn về các bài tập, trò chơi do vậy cần bồi dưỡng thêm cho giáo viên vàcung cấp một số bài tập cho giáo viên để họ có cơ sở thực hiện. Mặc dù vậy, nhưng ngẫunhiên trong các trò chơi mà người nghiên cứu quan sát được ở các góc hoạt động của trẻ lạicó thể giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ như trò chơi "bàn cờ thông minh", "tìmđường ngắn nhất" hoặc trò chơi xây dựng chẳng hạn (xem phụ lục 1.5) cho6nên tư duy trực quan sơ đồ của trẻ đạt ở đầu mức độ 4. Thiết nghĩ, nếu giáo viên chú ý pháttriển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ thì có thể trẻ sẽ giải quyết được tất cả các bài tập, tức trẻcó thể dựa vào hai dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ.Sự phân phối điểm TB của trẻ được thể hiện ở biểu đồ 2.4.1 sau:Điểm TBBiểu đồ 2.4.1: Biểu đồ phân phối điểm TB 10 bài trắc nghiệm của trẻTheo biểu đồ 2.4.1, ta thấy: điểm số của tất cả các bài tập từ 1 đến 8 đều trên TB. Cácbài tập 3, 4, 5 có điểm trung bình cao hơn bài tập 1 và 2. Điều này cho phép chúng ta khẳngđịnh rằng trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường này vẫn chưa có khả năng định hướng trong không gianmột cách chính xác và khả năng sử dụng các mốc định hướng của trẻ tốt hơn khả năng địnhhướng trong không gian. Ở bài tập 6 và 7, điểm TB của trẻ thấp là do trẻ đã xác định đượchướng đi và mốc đầu tiên trong sơ đồ nhưng trẻ chưa có cái nhìn bao quát để thấy được sựluân chuyển từ vật định mốc này sang vật định mốc kia, đâu là mốc định hướng chính, đâu làmốc định7hướng phụ như đã xác định ở trên khóa. Bài tập 9 và 10 có điểm TB thấp là do phần lớn trẻchưa nhận ra sự tương quan một cách chi tiết giữa sơ đồ lớn và chìa khóa dựa trên hai dấuhiệu: Mốc và hướng.Bảng 2.4.2: Phân tích mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở hai trường MNBS và MNBCBTĐiểmMức độN%Từ 0 đến 5100Từ 6 đến 1421414Từ 15 đến 2432323Từ 25 đến 3444646Từ 35 đến 4451717100100Tổng NSự phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ được thể hiện ở biểu đồ 2.4.2sau:Biểu đồ 2.4.2: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻTheo bảng 2.4.2 và biểu đồ 2.4.2, ta thấy: không có trẻ nào có tư8duy trực quan sơ đồ ở mức độ 1. Như vậy, tất cả các trẻ đều đã có thể xác định được hướng.Có 14 trẻ, chiếm 14% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 2 nghĩa là trẻ đã có khảnăng giải quyết bài tập theo một dấu hiệu, trẻ đã biết phân bài tập ra từng giai đoạn. Ở mỗichỗ rẽ, trẻ đã biết chú ý đến dấu hiệu của hướng đi, mốc định hướng đã có sẵn trong chìakhóa. Tuy nhiên, trẻ chỉ sử dụng phương thức này ở giai đoạn đầu của bài tập chứ chưa cókhả năng duy trì đến cuối bài tập. Trẻ ở nhóm này đã xuất hiện khả năng xác định sự tươngquan giữa chìa khóa và sơ đồ nhưng còn rời rạc, hỗn đồng.Có 23 trẻ, chiếm 23% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 3 nghĩa là trẻ có khả năngsử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ,trẻ chỉ giải quyết được các bài tập từ 1 đến 6, các bài tập còn lại trẻ chưa thể giải quyết. Trẻ ởnhóm này chưa giải quyết được những bài tập đòi hỏi phải dựa vào hai tham số.Trẻ có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4 chiếm tần suất rất cao: có đến 46 trẻ, chiếm46%, nghĩa là trẻ vẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết tốtcác bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được mộthoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuối thì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu.Có 17 trẻ, chiếm 17% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 5: nghĩa là trẻ đã nhận rasự tương quan một cách chi tiết giữa sơ đồ lớn và chìa khóa dựa trên hai dấu hiệu: Mốc vàhướng. Trẻ giải quyết được tất cả các9bài tập. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tư duy trực quan sơ đồ của 17 trẻ này từ phía phụhuynh trẻ thì hầu hết đều trả lời là không có nhiều thời gian để chơi với bé nhưng mua rấtnhiều đồ chơi cho bé đại loại như banh, ghép hình, dụng cụ vẽ tranh... để bé chơi mà thờigian chơi của bé cũng rất ít, khoảng 15 đến 30 phút, chủ yếu là các bé chơi ở trên trường.Như vậy, tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào môi trường, điều kiện vuichơi và học tập.Từ kết quả trên cho ta rút ra kết luận: Hầu hết trẻ chưa thể dựa vào 2 dấu hiệu để giảiquyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ mà chỉ dựa vào một dấu hiệu để giải quyết được bài tậptư duy trực quan sơ đồ. Tuy nhiên, từ kết quả trên cũng cho ta thấy, trẻ đã manh nha khả năngdựa vào 2 kí hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ vì vậy nếu nhà trường tổ chứcđể phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ một cách khoa học thì trẻ sẽ có thể dựa vào 2 dấuhiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ.2.4.2.2. Kết quả đo nghiệm mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo trường (trườngMNBS và trường MNBCBT)Bảng 2.4.3. Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của trẻ theo trườngTrườngTổngNĐiểm TBĐLTCBông Sen5022.008.30Bến Thành5029.827.76Chú thích: (*): Có ý nghĩa ở mức α = 0,05t-4.86Sig< 0,001(*)10Theo bảng 2.4.4, ta thấy: Điểm trung bình về mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ởhai trường có sự chênh lệch rõ rệch: trẻ ở trường MNBS có điểm trung bình là 22 ở mức độ 3tức trẻ có khả năng sử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữachìa khóa và sơ đồ, trẻ chưa giải quyết được các bài tập từ 7 đến 10. Trẻ ở nhóm này chưagiải quyết được những bài tập đòi hỏi phải dựa vào hai tham số.Và trẻ ở trường MNBCBT có điểm trung bình là 29.82 ở mức độ 4 tức trẻ ở nhóm nàyvẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phầncủa mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuối thì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu.ĐLTC tiêu chuẩn ở điểm số của trẻ trường MNBS cũng cao hơn ĐLTC tiêu chuẩn ởđiểm số của trẻ trường MNBCBT. Sự chênh lệch này có ý nghĩa gì? Ta thấy sig < 0.001.Điều này chứng tỏ sự khác biệt trên là có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết quả này phù hợp vớigiả thuyết ban đầu của người nghiên cứu. Nghiên cứu thực tế, người nghiên cứu nhận thấyrằng sự khác biệt này là có nguyên nhân. Thứ nhất, trẻ ở trường MNBCBT được học tập cũngnhư vui chơi trong điều kiện tốt hơn như: cơ sở vật chất tốt, đồ chơi nhiều, có các góc hoạtđộng rộng rãi và có thư viện riêng để đọc sách...được học và chơi một số môn mà ở trườngMNBS không có như bơi lội, nhịp điệu, kidsmart... Thứ hai, gia đình của các em hầu hết đềukhá giả và ở trung tâm TP.HCM nên điều kiện học tập của các em cũng được trang bị tốt hơn.Thứ ba, ở trường MNBCBT, các em học trên tầng 3 mà qua mỗi bậc cầu thang thì có dán(hoặc xây)11các biểu tượng, hình ảnh về môi trường xung quanh và khi các em đi lên xuống cầu thanhnhiều lần như vậy sẽ hình thành trong đầu các em một sơ đồ (con đường) lên lớp một cách vôthức nhưng lại giúp ích cho tư duy sơ đồ của các em. Đặc biệt là trẻ ở trường MNBT đượcdạy dỗ, chăm sóc bởi đội ngũ giáo viên đều trên mười năm kinh nghiệm, trong khi đó, độingũ giáo viên khối lớp lá của trường MNBS đều dưới 10 năm kinh nghiệm.Bảng 2.4.4. Phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo trườngMức độMNBSMNBCBTTổngĐiểmN%N%N%Từ 0 đến 51000000Từ 6 đến 1421111331414Từ 15 đến 2431616772323Từ 25 đến 344202026264646Từ 35 đến 4453314141717Tổng5050505050100100Sự phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở trường MNBS và trườngMNBCBT được thể hiện ở biểu đồ 2.4.3 và biểu đồ 2.4.412Biểu đồ 2.4.3: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ trường MNBSBiểu đồ 2.4.4: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ trường MNBCBT.13Theo bảng 2.4.4 và hai biểu đồ 2.4.3; 2.4.4, ta thấy trẻ ở trường MNBCBT có xuhướng vượt trội hơn so với trẻ ở trường MNBS. Ở mức độ 5 nghĩa là trẻ có khả năng giảiquyết bài tập theo 2 dấu hiệu (bài tập 7 đến 10), trường MNBCBT có 14 trẻ trong khi ởtrường MNBS chỉ có 3 trẻ. Ngược lại, ở mức độ 2, trẻ có thể dựa vào một dấu hiệu để giảiquyết bài tập nhưng khả năng xác định sự tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ nhưng còn rờirạc, hỗn đồng thì trường MNBS có đến 11 trẻ trong khi trường MNBCBT chỉ có 3 trẻ. Và cóđến 80% trẻ ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4 và 5, trong khi đó chỉcó 46% trẻ ở trường MNBS có tư duy trực quan sơ đồ ở hai mức độ này.2.4.2.3. Kết quả đo nghiệm mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo giới (nam vànữ)Bảng 2.4.5. Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của mỗi trẻ theo giớiGiớiTỔngNĐiểm TBĐLTCNam4725.069.29Nữ5326.668.75tSig- 0.890.374Mức ý nghĩa α = 0,05Theo bảng 2.4.5, ta thấy: Điểm trung bình về mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻnam và nữ chênh lệch không đáng kể và mức độ tư duy của cả hai phái đều nằm ở đầu mứcđộ 4, tức trẻ ở nhóm này vẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giảiquyết tốt các bài tập từ 1 đến 6 còn các bài tập còn lại trẻ chỉ có thể làm được phần đầu và chỉtính được một phần của mỗi sơ đồ khóa. ĐLTC tiêu chuẩn của điểm TB ở mỗi phái cũngkhông có sự chênh lệch nhiều. Ở cột sig, ta cũng thấy sự14khác biệt này là không có ý nghĩa về mặt thống kê (sig = 0.374). Kết quả này không phù hợpvới giả thuyết ban đầu của người nghiên cứu nhưng nó phù hợp với lý luận nghiên cứu. Vìtìm hiểu thực tế, ta thấy, trẻ 5 - 6 tuổi về mặt cấu trúc sinh học của não bộ mặc dù đã có đầyđủ các chức năng sinh lý của người nhưng nó vẫn chưa phát triển đến mức cao nhất và sựkhác biệt về các yếu tố tâm lý cũng chưa nhiều, các em chưa đi vào từng lĩnh vực riêng biệtmà lại có chung một môi trường học tập và vui chơi nên không có sự chênh lệch nhiều vềmức độ tư duy trực quan sơ đồ là hợp lý.Bảng 2.4.6: Phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo giớiĐiểmMức độNamNữTổngN%N%N%Từ 0 đến 51000000Từ 6 đến 142714.9713.21414Từ 15 đến 243l123.41222.62323Từ 25 đến 3442144.72547.24646Từ 35 đến 445817916.717174710053100100100Tổng NTheo bảng 2.4.6, ta thấy: Sự khác biệt về tư duy trực quan sơ đồ giữa trẻ nam và trẻnữ giữa hai trường MNBS và MNBCBT ở các mức độ là không đáng kể và tư duy trực quansơ đồ của trẻ nam và nữ đều tập trung cao nhất ở mức độ 4.15Bảng 2.4.7: Điểm TB trắc nghiệm từng bài của trẻ theo giớiPháiĐiểm TBNam2.55Nữ2.33Nam2.57Nữ2.96Nam3.04Nữ3.24Nam2.70Nữ3.26Nam3.04Nữ3.24Nam2.43Nữ2.75Nam2.04Nữ2.30Nam3.10Nữ3.00Nam1.91Nữ1.81Nam1.65Nữ1.73Bài 1Bài 2Bài 3Bài 4Bài 5Bài 6Bài 7Bài 8Bài 9Bài 10Mức ý nghĩa α = 0,05Sig.352.189.482.085.473.277.312.681.803.83616Theo bảng 2.4.7, ta thấy điểm TB của từng bài tập của trẻ nam so với trẻ nữ chênhlệch không nhiều . Ba bài tập mà có sự chênh lệch về điểm TB giữa trẻ nam và nữ nhiều nhấtlà bài tập 2, 4 và 6 nhưng số điểm chênh lệch cũng rất nhỏ, lần lượt là 0.39 điểm (nam: 2.57điểm, nữ: 2.96 điểm) - 0.56 điểm (nam: 2.70 điểm, nữ: 3.26 điểm) - 0.32 điểm (nam: 2.43điểm, nữ: 2.75 điểm). Các bài tập còn lại điểm số chênh lệch từ 0.1 điểm đến 0.26 điểm. Sựchênh lệch này, xét về mặt điểm số thì không đáng kể. Quan sát cột sig, ta thấy ở tất cả cácbài tập thì sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa về mặt thống kê (sig > 0.05).Từ các kết quả trên, có thể khẳng định, mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ củatrẻ nam và nữ không có sự khác biệt.2.4.2.4. Nguyên nhân thực trạngTừ kết quả quan sát thực tế và điều tra từ phía 13 giáo viên và 17 phụ huynh học sinhcho phép người nghiên cứu đưa ra những kết luận về nguyên nhân dẫn đến thực trạng tư duytrực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường MNBS và MNBCBT như sau:Phụ huynh của trẻ mầm non đa phần là còn trẻ và rất bận rộn nên không có thời gianhướng dẫn và vui chơi cùng trẻ cho nên đặt tất cả nhiệm vụ phát triển trí tuệ cho trẻ vào giáoviên ở trường mầm non. Điều này được thể hiện khi hỏi: ngoài thời gian trẻ chơi và học ởtrường thì anh/chị thường cho trẻ chơi trò chơi gì? thì có đến 14 phụ huynh bảo là bé thíchchơi cái gì thì để bé chơi, chơi chán thì bé chơi cái khác nhưng thời gian bé chơi ở nhà cũngrất ít. Những đồ chơi cho bé rất phong phú như banh, xe điện, búp bê, đồ bán hàng, xếp hình,tập tô màu... Những đồ17chơi dành cho bé chưa được các phụ huynh xem xét, lựa chọn để giúp bé phát triển trí tuệ màchỉ mua theo sở thích của các bé. Và khi được hỏi, những lúc bé chơi như vậy thì gia đình cóchơi cùng bé không? thì phụ huynh trả lời rằng cũng có lúc chơi với bé nhưng thường thì giađình chỉ xem ti vi chung hoặc trò chuyện với bé, nghe bé khoe về những cái học được ởtrường... còn có nhiều thời gian một chút như chủ nhật thì hay dẫn bé đi công viên chơi. Cũngcó trường hợp đặc biệt như trường hợp của bé Tăng N.A (bé đạt được 38 điểm) thì mẹ bé (chịHoàng Thị K. N) cho biết bé rất thích vẽ, hầu như ngoài thời gian học và ngủ ra bé dành tấtcả thời gian còn lại để vẽ và xem các chương trình dành cho trẻ em trên tivi như chuyện nhỏ,những em bé thông minh... hoặc như trường hợp của bé Phạm M. N (bé đạt được 42 điểm)chẳng hạn, mặc dù mẹ bé (chị Trần T. L) làm nội trợ nhưng cũng ít khi chơi với bé vì theonhư chị kể thì thời gian ở nhà bé thường đi chơi ở "hàng xóm" nhiều hơn, nếu chơi ở nhà thìbé thường chơi xếp hình nhưng bé rất mau chán, khoảng 20 phút là lại đi chơi ở xóm. Duynhất chỉ có trường hợp của bé Phạm Đ. T (là bé duy nhất đạt được tối đa 44 điểm) là phụhuynh có chú ý đến việc phát triển trí tuệ lẫn nhân cách cho bé. Chị Mai Thị H. T, mẹ của béT cho biết là ba bé rất quan tâm đến việc mua đồ chơi cho bé, không bao giờ cho bé xemhoặc chơi các trò chơi mang tính khích động hay bạo lực như súng, kiếm, xe tăng... mà chỉcho bé chơi trò chơi ghép hình và mua các đĩa kidsmart cho bé chơi mỗi lần bé chơi khoảng30 phút. Ngoài ra thì cho bé xem chương trình "chuyện nhỏ", "bí mật gia đình" và "tam saothất bản". Chị còn tiết lộ thêm là bé rất thích "đoán" trong trò chơi "tam sao thất bản". Chủnhật18thì gia đình cùng bé đi công viên hoặc siêu thị. Bé T rất thích đi như vậy... Tuy nhiên, hầu hếtphụ huynh thì không có thời gian hoặc không biết giúp bé phát triển tư duy. Nhưng vấn đềquan trọng là khi được hỏi: Trong những trò chơi mà anh/chị cho bé chơi thì anh chị thấy tròchơi nào sẽ giúp bé phát triển tư duy trực quan sơ đồ thì 100% phụ huynh được phỏng vấnđều hỏi ngược lại là "Tư duy trực quan sơ đồ là sao?". Nhưng cũng từ thực tế nghiên cứu thìngười nghiên cứu nhận thấy mặc dù có 76,9% giáo viên được phỏng vấn trả lời rằng "cầnthiết" phải phát triển TDTQSĐ cho trẻ và 23,1% giáo viên được phỏng vấn trả lời rằng "rấtcần thiết" phải phát triển TDTQSĐ cho trẻ nhưng trình độ hiểu biết về tư duy trực quan sơ đồcủa các giáo viên ở hai trường này rất ít và nhà trường cũng chưa đưa nội dung phát triển tưduy trực quan sơ đồ cho trẻ vào mục tiêu dạy học nên chưa lồng ghép nội dung phát triển tưduy trực quan sơ đồ cho trẻ cũng như chưa đầu tư vào việc trang bị cơ sở vật chất (đồ chơi,đồ dùng học tập nhằm phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ) và giáo viên cũng chưa biếtthiết kế các trò chơi giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ. Chính vì vậy nên giáo viêncũng không hướng dẫn phụ huynh học sinh để họ biết lựa chọn đồ chơi cho trẻ và nên cho trẻxem gì, chơi trò chơi gì?Nhưng ngẫu nhiên trong các trò chơi ở hoạt động góc của trẻ lại giúp trẻ phát triển tưduy trực quan sơ đồ nên tư duy trực quan sơ đồ của trẻ đạt ở đầu mức độ 4. Như trong tròchơi "bàn cờ thông minh" thì trẻ biết được cách xác định hướng trên, dưới, phải, trái và đitheo sơ đồ được chỉ dẫn, và cũng trong trò chơi đó, trẻ biết dùng các vật (biểu tượng) tượngtrưng thay thế cho vật thật. Hoặc như trong trò chơi "tìm đường ngắn nhất"19chẳng hạn, trong trò chơi này buộc trẻ phải xác định mối quan hệ không gian giữa các con sốvới nhau và giữa các con số với vật chuẩn (quà), và khi thực hiện trò chơi là lúc trẻ thiết lậpmột con đường (sơ đồ) để đi đến quà và trẻ phải xác định được con số "mốc" phải đi qua.Chính vì vậy mà nó góp phần giúp cho TDTQSĐ của trẻ phát triển.Trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ tốt hơn trẻ 5 - 6 tuổi ởtrường MNBS phần lớn là do điều kiện vui chơi và học tập của các em tốt hơn trẻ ở trườngMNBS. Ở trường MNBCBT, các bé được chơi ở phòng kidsmart và đồ chơi của các bé cũngnhiều hơn, không gian chơi rộng rãi nên bé có thể chơi thoả thích trong khi đó, ở trườngMNBS, các bé muốn chơi trò chơi xây dựng nhưng cũng không đủ chỗ mà chơi, mặc dù "gócchơi" đã được lấn ra hành lang nhưng đang xây nửa chừng thì hết chỗ nên các bé phải "xây"vòng lại hoặc có khi đang xây thì một bé khác chạy vào là xem như xong. Ngoài ra, ở trườngMNBCBT vì đầy đủ cơ sở vật chất nên môi trường xung quanh của các bé phong phú hơn,bên cạnh đó, các biểu tượng về các loại trái cây, vật dụng... được để ở các bậc cầu thangtrong trường nên các bé có được nhiều hình ảnh và biểu tượng về những sự vật xung quanhhơn... chính những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho TDTQSĐ của trẻ ở trườngMNBCBT phát triển.2.4.3. Kết quả thực nghiệm2.4.3.1. Kết quả chung về thực nghiệmSau khi tiến hành cho 100 trẻ được chọn làm mẫu nghiên cứu thực trạng TDTQSĐlàm trắc nghiệm L.A. Venger và thu được kết quả như được trình bày ở phần 2.1, ngườinghiên cứu đã chọn 30 trẻ để tiến hành20thực nghiệm hình thành. Qua gần 3 tháng tiến hành thực nghiệm người nghiên cứu cho 30 trẻđược chọn làm thực nghiệm thực hiện lại trắc nghiệm LA. Venger. Kết quả thu được như sau:Bảng 2.4.8: Điểm trắc nghiệm của nhóm ĐC và nhóm TNĐCTNNhómĐiểm trước TNĐiểm sau TNĐiểm TB28.3329.13ĐLTC1.912.36Điểm TB28.2734.93ĐLTC1.284.67Sự phân phối điểm TB trắc nghiệm của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN trước và sau TNđược thể hiện ở biểu đồ 2.4.5 sau:Biểu đồ 2.4.5: Biểu đồ điểm TB trắc nghiệm của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN trước và sau TNTheo bảng 2.4.8 và biểu đồ 2.4.5, ta thấy:* Trước thực nghiệm:Căn cứ vào điểm số TB của nhóm ĐC và nhóm TN ta có điểm TB của nhóm ĐC là28.33 và điểm TB của nhóm TN là 28.27; cũng như21ĐLTC tiêu chuẩn giữa 2 nhóm là tương đương nhau, không có sự chênh lệch đáng kể. Điềunày cho thấy việc chọn mẫu TN mang tính khách quan.* Sau thực nghiệm:Căn cứ vào điểm số TB của nhóm ĐC và nhóm TN, ta thấy rõ nét sự khác biệt giữanhóm ĐC so với nhóm TN. Cụ thể: Mặc dù điểm TB của cả 2 nhóm ĐC và TN sau thựcnghiệm đều tăng nhưng điểm TB của nhóm ĐC sau thực nghiệm chỉ tăng 0.8 điểm (trướcTN: 28.33 điểm; sau TN: 29.13 điểm). Người nghiên cứu cho rằng, sự tăng điểm số ở nhómĐC chỉ là vấn đề ngẫu nhiên xảy ra trong quá trình học tập và vui chơi của trẻ ảnh hưởng củanhiều yếu tố khách quan bên ngoài vì điểm số tăng không đáng kể. Ở nhóm TN thì điểm TBtăng lên một cách đáng kể từ 28.27 điểm trước TN lên 34.93 điểm sau TN (tăng 6,66 điểm).Điều này cho ta thấy tính hiệu quả của quá trình TN.Tính hiệu quả của quá trình TN còn được thể hiện ở sự tương đồng về điểm số của trẻđạt được trong quá trình TN với điểm số của trẻ sau TN trong bảng 2.4.9 sau:22Bảng 2.4.9: Điểm TB của trẻ trong quá trình TN và điểm sau khi TNTên trẻĐiểm TB trong quá trình TNĐiểm sau khi TNNguyễn Thị Kim Y1134Trần Thị Thúy V12.336Nguyễn Trọng H13.540Trần Hoàng Đ8.528Văn Bội H1132Châu Khánh V12.536Hứa Bảo K10.529Hoàng Vĩnh Bảo H1230Nguyễn Đỗ Trúc M13.538Trương Thị Hoài N1334Nguyễn Mai Thành Đ11.331Lê Trung T11.832Vũ Thị Thu G14.344Nguyễn Lê Thu N1338Cao Hoàng D1340Theo bảng 2.4.9, ta thấy: trong quá trình thực nghiệm, trẻ nào đạt được nhiều điểm thìkết quả bài trắc nghiệm sau thực nghiệm của trẻ càng cao.