Bướu huyết thanh bị canxi hoá là gì năm 2024

Khi sinh ra cháu có bướu huyết thanh trên đầu (cục mềm mềm ấn vào như có bọng nước). Các BS ở bệnh viện bảo là sẽ tự hết. Nhưng sau đó 6 tuần em không thấy hết mà chỗ mềm đấy to và cứng lại...

FB N. Lê gửi fanpage AloBacsi - Hỏi bác sĩ trả lời:

Chào BS ạ,

Bé em được 3 tháng, có khối bướu máu trên đầu. Lúc 1 tháng em có cho đi khám thì BS nói sau này cho bắn laser. Giờ bé được 3 tháng, nó to lên vậy có ảnh hưởng gì không ạ?

Bướu huyết thanh bị canxi hoá là gì năm 2024

BS Đoàn Mạnh Khải

Chào bạn, Sang thương này là u mạch máu (hemangioma), thường sẽ tự thoái triển (tiêu biến dần) khi trẻ lớn. Trừ một số vị trí hemangioma ở những vị trí nguy hiểm như hốc mắt, vùng hầu họng... mới cần can thiệp sớm.

Bạn có thể đưa bé đến khám tại Trung tâm U máu của Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM để được theo dõi và can thiệp vào thời điểm thích hợp.

Bướu huyết thanh bị canxi hoá là gì năm 2024

FB Hà L. gửi fanpage AloBacsi - Hỏi bác sĩ trả lời:

Em chào AloBacsi ạ,

Xin tư vấn giúp em. Em sinh bé trai đầu lòng. Khi sinh ra cháu có bướu huyết thanh trên đầu (cục mềm mềm ấn vào như có bọng nước). Các BS ở bệnh viện bảo là sẽ tự hết. Nhưng sau đó 6 tuần em không thấy hết mà chỗ mềm đấy to và cứng lại. Giờ đầu cháu bị u lên 1 cục.

Lúc bé được 6 tuần em cho cháu đi Nhi trung ương khám nhưng các BS ở đấy bảo là bướu huyết thanh đã canxi hoá k can thiệp gì đc cả cứ chờ thôi theo dõi thêm. Em rất sốt ruột đến nay cháu đc 2 tháng nhưng em không thấy cục trên đầu cháu nhỏ đi.

Em mong được tư vấn ạ.

Bướu huyết thanh bị canxi hoá là gì năm 2024

TTƯT.ThS.BS.CK2 Chu Tấn Sĩ

Chào bạn,

Đối với bướu huyết thanh (bướu máu), nếu là khối máu tụ nhỏ sẽ tự tan, nhưng nếu nhiều thì sẽ bị vôi hóa. Do tổn thương chỉ ở dưới da, ngoài xương sọ nên nhìn bên ngoài thì thấy "ghê" nhưng không ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ, do đó bạn không cần lo lắng quá.

Do bé còn nhỏ nên việc phẫu thuật cũng ít nhiều ảnh hưởng. Bạn nên để bé được 6 tháng tuổi, đánh giá lại chỉ định điều trị.

Đánh dấu đã đọc

Hầu hết các chấn thương này thường là nhẹ, tuy nhiên, một vài trường hợp có thể có chấn thương nghiêm trọng xảy ra.

Khuôn đầu bị kéo dài ra do khi sinh thường, áp lực đẩy mạnh trong tử cung đẩy đầu trẻ sơ sinh làm cho đầu trẻ bị ép vào và kéo dài khi đi qua đường sinh dục của mẹ. Khuôn này là một quá trình bình thường và không phải là một dấu hiệu của chấn thương. Sa van hai lá thường không cần điều trị.

Bướu huyết thanh là khối dịch dưới da đầu do sự thoát mạch của huyết thanh dưới áp lực xảy ra trong cuộc chuyển dạ lên đầu trẻ ở những trẻ đẻ ngôi đầu.

Xuất huyết dưới galeal là tình trạng máu chảy vào khoang giữa cân galeal và màng xương. Xuất huyết dưới galeal là tình trạng máu chảy vào khoang giữa cân galeal và màng xương Nó là kết quả của chấn thương lớn và được đặc trưng bởi một khối lượng dịch (máu) bao trùm trên toàn bộ vùng đầu, bao gồm khu vực thái dương, khối dịch này xuất hiện trong vài giờ đầu sau sinh. Chảy máu trong khoang có thể dẫn đến mất máu nặng và shock do mất máu – cần được truyền máu cấp cứu. Chảy máu dưới cân galeal có thể là hậu quả của sử dụng các biện pháp can thiệp như forceps hay giác hút hoặc từ các bệnh lý rối loạn đông máu.

Trong một số trường hợp, tình trạng giảm thể tích máu nghiêm trọng và sốc xảy ra trước khi xuất huyết dưới màng cứng. Điều trị xuất huyết dưới niêm mạc hầu hết là hỗ trợ bằng truyền nước muối và đóng gói hồng cầu theo yêu cầu.

Là tình trạng chảy máu ở màng xương sọ. Tụ máu xương sọ được phân biệt với chảy máu dưới cân Galeal bởi nó được giới hạn ở một xương mà không thể vượt qua đường khớp của xương đó. Tụ máu xương sọ thường gặp ở một bên và thường là ở xương đỉnh. Một số ít trường hợp có thể có vết rạn xương trên nền xương. Máu tụ thường rõ ràng trong vài ngày đầu sau sinh sau đó tan dần và hết sau vài tuần.

Điều trị với khối máu tụ là không cần thiết nhưng có thể dẫn đến thiếu máu hoặc vàng da Đôi khi, máu tụ canxi hóa thành một khối xương. Đôi khi, máu tụ canxi hóa thành một khối xương.

Chụp CT hoặc MRI sọ để chần đoán xác định vỡ xương sọ và là loại trừ các biến chứng kèm theo khác.

Đánh giá vấn đề can thiệp ngoại khoa nếu cần

Dây thần kinh mặt là dây thần kinh bị thương tổn thường xuyên nhất. Tuy nhiên, một số trường hợp tổn thương do áp lực lên dây thần kinh xảy ra trong cuộc đẻ do tư thế thai nhi (đầu nằm trên vai, gai đuôi cột sống hay do u xơ tử cung).

Tổn thương dây thần kinh mặt thường xảy ra ở ngoại vi (liệt ngoại biên) do vị trí tổn thương thường ở phía sau chố thoát ra từ trần hòm nhĩ và gây ra triệu chứng: mất cân đối khuôn mặt đặc biệt là khi trẻ khóc. Việc xác định tổn thương thần kinh bên nào đôi khi gây ra nhầm lẫn. Tuy nhiên, có thể phân biệt được bằng cách quan sát cơ mặt bên tổn thương sẽ không vận động được. Tổn thương cũng có thể xảy ra cho nhánh riêng lẻ của dây thần kinh, thường là nhánh hàm dưới.

Một nguyên nhân khác của sự không đối xứng trên mặt là sự không đối xứng hàm dưới do áp lực trong tử cung; trong trường hợp này do sự phân bố thần kinh là hoàn toàn bình thương nên cả 2 bên mặt các cơ đều có thể vận động bình thường. Trong sự bất đối xứng dưới hàm dưới, hàm trên và mặt cắn của hàm dưới không song song, nó phân biệt nó với tổn thương dây thần kinh mặt. Bất thường bẩm sinh có thể gây ra bất đối xứng khi cười do thiếu 1 bên cơ hạ mép (cơ tam giác môi). Bất thường này là không đáng kể về mặt lâm sàng nhưng phải được phân biệt với tổn thương dây thần kinh mặt.

Không cần thiết chỉ định xét nghiệm hay điều trị với những trường hợp tổn thương thần kinh mặt ngoại vi hay sự mất cân xứng của xương hàm dưới. Thường tự khỏi sau 2 đến 3 tháng tuổi.

Các tổn thương bao gồm

  • Tổn thương đám rối cánh tay trên (C5 đến C7): Tác động đến các cơ xung quanh vai và khuỷu tay
  • Đám rối dưới (C8 đến T1): Đám rối dưới (C8 đến T1): chủ yếu ảnh hưởng đến cơ của cẳng tay và bàn tay
  • Toàn bộ dây thần kinh cánh tay: Tác động lên toàn bộ chi trên và các sợi giao cảm của T1 (ngực 1)

Vị trí và loại tổn thương gốc dây thần kinh xác định tiên lượng.

Liệt Erb hay liệt Klump thường không gây ra mất cảm giác, có thể thử bằng test đau. Các tổn thuơng này có thể tự phục hồi nhanh chóng nhưng cũng có thể còn tồn tại kéo dài. Nếu sự thiếu hụt trầm trọng hơn hoặc kéo dài hơn 1 hoặc 2 tuần, liệu pháp vật lý trị liệu hoặc vận động khớp vai được khuyến cáo. Nếu không cải thiện trong vòng 1 hoặc 2 tháng, có nguy cơ bị tàn tật lâu dài và tăng trưởng kém. Đánh giá bởi một bác sĩ thần kinh nhi khoa và/hoặc bác sĩ chỉnh hình tại một bệnh viện chuyên khoa nhi được chỉ định để xác định liệu phẫu thuật thăm dò và sửa chữa vi phẫu của đám rối thần kinh cánh tay có thể cải thiện kết quả.

Sự tổn thương của toàn bộ đám rối thần kinh ít gặp hơn, với biểu hiện chi trên mềm nhẽo, không hoặc rất ít vận động, mất các phản xạ và thường mất cảm giác kèm theo. Hội chứng Horner thường ở một bên thường xảy ra trong các trường hợp tổn thương nặng. Tổn thương bó tháp một bên (với, giảm vận động, dấu hiệu Babinski) cho thấy chấn thương tủy sống và MRI nên được chỉ định.

Trẻ có thể có triệu chứng suy hô hấp với giảm thông khí phổi bên tổn thương.

Chấn thương dây thần kinh ngoại vi khác (bao gồm, thần kinh quay, thần kinh hông, thần kinh bịt) rất hiếm ở trẻ sơ sinh và thường không liên quan đến chuyển dạ và cuộc sinh. Chúng thường là hậu quả thứ phát của các tổn thương khu trú khác (ví dụ, tiêm vào hoặc gần dây thần kinh hông).

Điều trị tổn thương dây thần kinh ngoại biên chủ yếu là điều trị hỗ trợ, đặt tư thế đối kháng với các cơ bị liệt và chờ đợi tự phục hồi. Các chỉ đinh ngoại khoa với tổn thương dây thần kinh thường rất hiếm. Hầu hết các chấn thương dây thần kinh ngoại biên đều tự hồi phục hoàn toàn.

Tổn thương ban đầu có thể gây tình trạng choáng tủy với biểu hiện trẻ hoàn toàn mềm nhũn (nặng hơn mức độ tổn thương thật sự của tủy sống). Mất cảm giác và giảm tiết mồ hôi phần cơ thể phía dưới tổn thương. Tổn thương có thể phục hồi trong vòng vài ngày hoặc vài tuần. Trẻ thường thở bình thường vì vận động của cơ hoành được chi phổi bởi nhánh thần kinh cao hơn (ở C3 đến C5) so với tổn thương dây điển hình. Nếu tổn thương tủy sống hoàn toàn sẽ gây liêt cơ liên sườn, cơ bụng, trực tràng, bàng quang gây ra tình trạng đái ỉa không tự chủ. Hậu quả có thể dẫn đến sự thay đổi nhiệt độ không ổn định theo sự thay đổi nhiệt độ môi trường.

MRI chỉ định để đánh giá tổn thương, đồng thời loại trừ các căn nguyên khác như u bẩm sinh hay u máu chèn ép tủy Dịch não tủy thường có máu. Dịch não tủy thường có máu.

Với sự chăm sóc thích hợp, hầu hết trẻ sơ sinh sống sót trong nhiều năm. Nguyên nhân gây tử vong ở bênh nhân thường do tình trạng viêm phổi tái phát và mất chức năng thận. Điều trị tổn thương tủy sống bao gồm chăm sóc ngăn ngừa loét da, điều trị kịp thời các nhiễm trùng đường tiểu và đường hô hấp, và đánh giá định kỳ để xác định tắc nghẽn đường tiểu sớm.

Xuất huyết trong hoặc xung quanh não có thể xảy ra ở bất kỳ trẻ sơ sinh nào nhưng đặc biệt phổ biến ở những trẻ sinh non; khoảng 25% trẻ non tháng < 1500 g bị xuất huyết nội sọ.

Nguyên nhân chủ yếu gây xuất huyết trong sọ bao gồm

  • Thiếu oxy-thiếu máu
  • Biến đổi huyết áp
  • Tăng tưới máu do tái tưới máu
  • Các áp lực tác động lên đầu trong quá trình chuyển dạ

Xuất huyết có thể xảy ra ở nhiều vị trí trong hệ thần kinh trung ương. Xuất huyết nhỏ dưới màng nhện, liềm đại não và lều tiểu não thường là những phát hiện ngẫu nhiên trong giải phẫu tử thi ở trẻ sinh non tử vong vì nguyên nhân không phải là hệ thần kinh trung ương. Xuất huyết lớn dưới màng nhện hoặcndưới màng cứng, tổ chức não và não thất ít gặp hơn nhưng nghiêm trọng hơn.

Xuất huyết nội sọ ở trẻ sơ sinh cần được đặt ra trong các trường hợp sau:

  • Ngưng thở
  • Động kinh
  • Li bì
  • Khám thần kinh bất thường

Trẻ sơ sinh như vậy cần được chỉ định thăm khám hình ảnh sọ não như một phần của đánh giá ban đầu. Siêu âm qua thóp là biện pháp thăm khám hầu như không có nguy cơ, không cần an thần cho trẻ, và có thể xác định được máu trong não thất hoặc nhu mô não. CT nhạy hơn so với siêu âm trong phát hiện các chảy máu nhỏ dưới nhện, dưới màng cứng hay tổn thương xương, nhưng CT cho trẻ sơ sinh phơi nhiễm với bức xạ ion hóa. MRI nhạy hơn và đặc hiệu hơn so với CT hoặc siêu âm trong phát hiện chảy máu nội sọ và chấn thương não, nhưng mất nhiều thời gian hơn để tạo ra hình ảnh so với chụp CT và có thể cần cho trẻ sơ sinh dùng an thần để hạn chế cử động và do đó cải thiện chất lượng hình ảnh. CT được thực hiện để nhanh chóng xác định xuất huyết nội sọ.

Điều trị xuất huyết trong sọ phụ thuộc vào vị trí và mức độ trầm trọng của xuất huyết nhưng thường chỉ hỗ trợ, bao gồm tiêm vitamin K nếu trước đó chưa được tiêm và điều chỉnh các rối loạn đông máu nếu có. Trong trường hợp xuất huyết đáng kể (ví dụ, xuất huyết dưới màng cứng), cần hội chẩn chuyên khoa phẫu thuật thần kinh để xác định nguy cơ can thiệp phẫu thuật.

Các loại xuất huyết nội sọ

Hầu hết tụ máu ngoài màng cứng có thể tự giới hạn và tự hết mà không cần can thiệp điều trị. Nếu cần can thiệp có thể là phẫu thuật hoặc can thiệp tối thiểu. Can thiệp tối thiếu được thực hiện bằng cách chọc hút kim dưới hướng dẫn siêu âm. Chỉ định trong trường hợp khối máu tụ lớn, tiến triển nhanh và không đáp ứng các biện pháp điều trị khác.

Nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời, kết quả thần kinh là tốt.

Xuất huyết não thất và/hoặc xuất huyết trong não thường xảy ra trong 3 ngày đầu đời và là loại chảy máu trong sọ nặng nề nhất Xuất huyết não thất thường xảy ra trẻ sơ sinh non tháng, thường là hai bên và xuất phát từ vùng mầm (geminal matrix). Xuất huyết thường xảy ra trẻ sơ sinh non tháng Trẻ sơ sinh non tháng Trẻ sơ sinh ra trước 37 tuần tuổi thai được coi là non tháng. Đẻ non được xác định theo tuổi thai tại thời điểm trẻ được sinh ra. Trước đây, trẻ sơ sinh cân nặng < 2,5 kg được gọi là non... đọc thêm , thường là hai bên và xuất phát từ vùng mầm. Xuất huyết não thất ở trẻ đủ tháng rất hiếm gặp. Hầu hết các trường hợp là chảy máu dưới màng mềm và trong não thất với lượng máu nhỏ. Trong trường hợp xuất huyết nặng, có thể có chảy máu vào nhu mô với một lượng lớn máu trong các bể lớn và các bể đáy. Tình trạng thiếu oxy-thiếu máu thường đi kèm với xuất huyết trong não thất và xuất huyết dưới nhện. Thiếu oxy-thiếu máu cục bộ làm tổn thương lớp tế bào nội mạch, làm mất khả năng tự điều tiết mạch máu não và làm tăng lưu lượng máu trong não và áp lực tĩnh mạch, tất cả dẫn xuất huyết trầm trọng hơn. Hầu hết các trường hợp xuất huyết não thất đều không có triệu chứng, nhưng những trường hợp xuất huyết lớn hơn và những trường hợp xuất huyết ở trẻ bị não úng thủy kèm theo có thể gây ngưng thở, tím tái hoặc bất ổn tim mạch đột ngột.

Điều trị xuất huyết trong não thất hầu hết là điều trị hỗ trợ. Tuy nhiên, với trẻ có biến chứng não úng thủy sau xuất huyết não có thể cần can thiệp phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy bằng tạo đường hầm đặt dẫn lưu trong da. Phẫu thuật nội soi não thất cúng là một biện pháp can thiệp được lựa chọn ở một số bệnh nhân. Một số trẻ thần kinh có thể tiến triển biến chứng thân kinh nên việc theo dõi và chỉ định can thiệp kịp thời là vô cùng cần thiết.

Xuất huyết dưới nhện là tổn thương thường gặp nhất của xuất huyết trong sọ. Là tình trạng chảy máu giữa màng nhện và màng mềm. Trẻ sơ sinh thường có biểu hiện triệu chứng trong ngày thứ hai hoặc thứ ba sau sinh gồm: ngưng thở, co giật, li bì hoặc các triệu chứng thần kinh bất thường khác.

Tiên lượng cho xuất huyết dưới nhện thường tốt hầu như không có di chứng lâu dài đáng kể. Tuy nhiên, với xuất huyết lớn hoặc có viêm màng não kèm theo, có thể dẫn đến biến chứng não úng thủy sau đó.

Điều trị xuất huyết dưới nhện chủ yếu là hỗ trợ vào theo dõi biến chứng não úng thủy về sau.

Xuất huyết dưới màng cứng là tình trạng chảy máu giữa dưới màng và màng mềm. Nó là hậu quả của tổn thương các mạch máu vùng liềm não, lều tiểu não và tĩnh mạch não. Xuất huyết nhỏ, dưới màng cứng có độ dày lên đến 3 mm là rất phổ biến, xảy ra ở gần một nửa số trẻ sơ sinh đủ tháng không triệu chứng đã chụp MRI lúc ≤ 72 giờ. Xuất huyết như vậy thường là lành tính. Xuất huyết lớn dưới màng cứng có xu hướng xảy ra ở trẻ sơ sinh primiparas, ở trẻ sơ sinh lớn hoặc sau khi sinh khó – những tình trạng có thể tạo ra áp lực bất thường lên các mạch nội sọ. Trẻ sơ sinh có thể có triệu chứng: ngưng thở, co giật, đầu to nhanh, khám thần kinh bất thường với giảm trương lực cơ, phản xạ Moro kém hoặc xuất huyết võng mạc rộng.

Tiên lượng cho xuất huyết dưới màng cứng lớn được bảo vệ.

Điều trị xuất huyết dưới màng cứng lớn là hỗ trợ, nhưng dẫn lưu máu tụ bằng phẫu thuật thần kinh có thể cần thiết đối với tình trạng chảy máu tiến triển nhanh do chèn ép các cấu trúc nội sọ quan trọng và các dấu hiệu lâm sàng và sinh hiệu xấu đi.

Không cần thiết phải điều trị đặc biệt, nhưng một số bác sĩ khuyên nên hạn chế vận động tay trong vòng một tuần bằng cách ghim ống tay áo của bên tay đó vào phía đối diện của áo sơ sinh. Thuốc giảm đau thường là không cần thiết vì trẻ sơ sinh bị gãy xương đòn thường không có dấu hiệu đau.

Các xương hông và xương đùi có thể bị nứt trong những trường hợp đẻ khó. Hầu hết chúng là gẫy kiểu cành tươi, và có thể tự phục hồi một cách nhanh chóng, hầu như không có biến chứng thậm chí cả những ca có di lệch mực độ vừa. Một số xương dài có thể gẫy qua phần mấu chuyển nhưng hầu như tiên lượng là tốt.