Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930 1935

Hoàn cảnh lịch sử

Chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933):

1. Về kinh tế 

Nông nghiệp, công nghiệp suy sụp, xuất nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ...

2. Về xã hội

  • Đời sống các giai cấp cực khổ. Ngoài ra còn phải gánh chịu hậu quả của thiên tai như: lụt lội, hạn hán, mất mùa...
  • Thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố, đàn áp, tăng thuế

3. Tác động

Mâu thuẫn dân tộc sâu sắc, tinh thần cách mạng của nhân dân lên cao.

Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh

1. Phong trào đấu tranh trên toàn quốc

  • Nửa đầu 1930, phong trào đấu tranh nổ ra mạnh mẽ khắp cả nước.
  • 1-5-1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân và nông dân cả nước tổ chức kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động dưới nhiều hình thức để biểu dương lực lượng và thể hiện sự đoàn kết với vô sản thế giới.

2. Phong trào ở Nghệ - Tĩnh

2.1. Diễn biến

  • Tháng 9 - 1930, phong trào công - nông phát triển đến đỉnh cao
  • Khẩu hiệu: chính trị kết hợp kinh tế
  • Hình thức: tuần hành thị uy, biểu tình có vũ trang tự vệ, tấn công cơ quan chính quyền địch.

→  Chính quyền địch nhiều nơi bị tê liệt, tan rã.

2.2. Chính quyền Xô - Viết Nghệ Tĩnh

  • Các Ban Chấp hành nông hội xã do các Chi bộ Đảng lãnh đạo quản lí mọi mặt đời sống chính trị  và xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo hình thức Xô viết (Hình thức tổ chức của khối liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân).
  • Lần đầu tiên, nhân dân ta thực sự nắm chính quyền ở một số huyện ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
  • Thi hành chính sách phục vụ quyền lợi quần chúng: trấn áp bọn phản cách mạng, bãi thuế, thực hiện quyền tự do dân chủ, chia lại ruộng đất ...
  • Xô viết Nghệ - Tĩnh diễn ra đời được 4 - 5 tháng thì bị đế quốc phong kiến tay sai đàn áp. Từ giữa năm 1931, phong trào tạm thời lắng xuống.

2.3. Ý nghĩa

  • Là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng ta cho cách mạng tháng Tám 1945.
  • Khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, khối liên minh công - nông hình thành.
  • Đảng ta được công nhận là bộ phận của Quốc tế cộng sản

2.4. Bài học kinh nghiệm

Bài học về công tác tư tưởng, liên minh công nông, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. 

Coggle requires JavaScript to display documents.

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1935

Chương II Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền

1930 - 19451. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930. Luận cương chính trị của ĐảngSau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên cao trào. BanChấp hành Trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dântộc. Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản ở Mátxcơva Liên Xô, Trần Phú về nước hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú đượcbổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữalúc đó một số uỷ viên Trung ương lâm thời của Đảng bị địch bắt. Một số uỷ viên mới được bổ sung.Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng Trung Quốc do Trần Phú chủ trì đã quyết định đổi tên ĐảngCộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương, thơng qua Nghị quyết Về tình hình hiện tại ở Đơng Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng và Điều lệ Đảng; thảo luậnbản Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương Dự án để thảo luận trong Đảng. Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, trongđó Ban Thường vụ có: Trần Phú, Ngơ Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị còn thơng qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân,thanh niên, phụ nữ…Ban Chấp hành Trung ương nhận định Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã lập đảng với tên gọi là Việt Nam cộng sảnĐảng chưa bao gồm được Cao Miên và Lào. Ban Chấp hành Trung ương quyết định bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng.Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội nghị hợp nhất thông qua đã chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranhđấu, Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng mà chỉnh đốn nội bộ,làm cho Đảng bơnsêvích hố. Hội nghị đã thảo luận Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương xác định:Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là30một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa. Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất củacách mạng Đơng Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, có tính chất thổ địa và phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hộicách mạng. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổđịa cách mạng cho triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau:có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốcchủ nghĩa. Luận cương nhấn mạnh: Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vơ sản và nơng dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là động lựcchính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngồi cơngnơng như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họsẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xuhướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ cơngnhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có một đườngchánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa CácMác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt đượcmục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản.Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơngnơng thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường võ trang bạo động. Vì vậy, lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu phần ít, phải lấy nhữngsự chủ yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trườngCác đoạn trích Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương Dự án để thảo luận trong Đảng đều theo Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 1998, t.2, tr. 88 - 103.31cách mạng. Đến lúc có tình thế cách mạng Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông. Võ trangbạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, phải tuân theo khuôn phép nhà binh.Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì thế giai cấp vơ sản Đơng Dương phải đồn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hếtlà giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranhcách mạng ở Đơng Dương .Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng. Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệgiữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnhhưởng trực tiếp của khuynh hướng tả của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó, nên Ban Chấp hành Trung ương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủyếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam bị nô dịch với đế quốc thực dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, do đó khơng nhấn mạnh nhiệmvụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranhchống đế quốc xâm lược và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặthạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hố và lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban Chấphành Trung ương đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Hội nghị hợp nhất thơng qua. Đó là một quyết định khơng đúng.Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là đến Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương 5-1941, Đảng đã khắc phục được những hạn chế đó và đưacách mạng đến thành cơng.