Em hiểu thế nào là hoa đong đưa

Đề 24. Cảm nhận của anh [chị] về khổ thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Bài làm

Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh [một địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông], nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà còn là một trong  những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình    tượng người lính   là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.

Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ [nàng e ấp] với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ [man điệu]. Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.

Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo với

Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình

Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời cùng với gió giao tranh

[Lau biên giới]

Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:

Trường vắng mưa mờ buông dốc xa

Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà 

Người xa phơ phất hồn lau gió Thổi trắng chân đồi như khói pha

[Hoa lau trường cũ]

Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.

Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đă truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.

//hoc360.net/phan-tich-tac-pham-cha-con-nghia-nang-ho-bieu-chanh/

//hoc360.net/phan-tich-truyen-ngan-hai-dua-tre-thach-lam/

Related

Đề 20. Cảm nhận của anh [chị] về đoạn thơ sau:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

 Bài làm

Đoạn thơ mở đầu bằng hình ảnh “người đi Châu Mộc” trong “chiều sương ấy”. Giữa một không gian mờ mờ, ảo ảo, hư hư, thực thực, tác giả đã đẩy người đọc về một điểm thời gian xa xôi vô định ở đâu đó trong nỗi nhớ của mình. “Người đi Châu Mộc” ở đây có thể hiểu như là đối tượng trữ tình để Quang Dũng hướng nỗi nhớ, tình cảm và ý thơ của mình đến. Tứ thơ của hai câu thơ thứ hai và thứ ba gợi nên cho người đọc biết bao rung động, suy tư. Chính cái cấu trúc “có thấy…có nhớ…” đã làm cho câu thơ, giọng thơ mang nhịp da diết, khắc khoải, in sâu thêm vào tiềm thức con người. Dường như cái “hồn” và cái “bóng” trong không gian ấy đều mờ nhạt, tạo nên cảm thức hoang sơ, cô quạnh. Đối với Quang Dũng, khi viết bài thơ này, cảm hứng chủ đạo là nỗi niềm nhớ thương về đồng đội, cho nên động tới bất kỳ câu thơ nào ta cũng thấy trào dâng nên xúc cảm. Mọi hình ảnh qua cảm quan của người đọc đều ở trong trạng thái mơ hồ, ám ảnh. Và chìm trong những hình ảnh tĩnh ấy, ta thấy nổi lên một hình ảnh “hoa đong đưa” thật đẹp và gợi hình. Câu thơ thứ tư đọc lên nghe giống như trong một thước phim vậy. Đất trời lặng lẽ theo con nước là bông hoa vô thường đơn chiếc.

Cả đoạn thơ nhuốm một vẻ buồn của tâm trạng, nếu như ở những khổ thơ trên trong bài Tây Tiến người ta thấy một giọng thơ lãng mạn trẻ trung và tươi tắn của anh lính trẻ Tây Tiến thì đến đây, tâm trạng như có phần trùng xuống. Phải chăng giữa mênh mang nỗi nhớ niềm yêu, giữa những hồi ức đẹp đẽ gian khổ mà hào hùng, anh dũng mà tài hoa, lòng Quang Dũng bỗng dưng cảm thấy cô đơn, buồn bã khi chợt hiểu ra rằng tất cả đều đã chìm sâu trong quá khứ.

Phải nói đây thực sự là một đoạn, thơ rất hay và đặc sắc trong cả một bài thơ Tây Tiến. Bởi lẽ, khi người ta đọc nó, người ta buộc phải hướng toàn bộ xúc cảm và tư tưởng về nó để cảm thụ được và hiểu được. Hơn thế nữa, tứ thơ gợi nhiều suy tưởng miên man. Nào là “hồn lau”, nào là “hoa đong đưa”, và đặc biệt là “chiều sương ấy”, hình ảnh nào cũng mang màu sắc vô thực, ám ảnh để rồi từ ấy, nó cứ len lỏi, len lỏi sâu thêm vào trong tâm trí cũng như là trong nỗi nhớ của Quang Dũng.

Nếu như coi Tây Tiến là một bản hòa âm thì có lẽ bốn câu thơ này sẽ là một nốt trầm xao xuyến để sau đây lại tiếp tục cất vút cao lên những khúc ca bi tráng của những người lĩnh Tây Tiến anh hùng.

Lời thơ đẹp và tứ thơ lại giàu hình ảnh, chính điều này đã làm nên vẻ đẹp cho toàn đoạn thơ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng “hồn lau nẻo bến bờ” hình ảnh này không chỉ mang nét cô đơn, mà còn gợi nên sự hoang dại của cảnh vật. Và “hoa đong đưa” dường như mang một cái gì đó tương phản với “dòng nước lũ”. Bởi lẽ, “hoa đong đưa” chỉ thường xuất hiện bên dòng sông phẳng lặng hay đại loại như thế. Phải chăng đây cũng chính là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của tác giả? Điều này có lẽ cũng chẳng ai biết chắc được, chỉ biết rằng, Quang Dũng đã thành công trong việc diễn tả được cảm xúc và nỗi nhớ bâng khuâng của mình gián tiếp từ những hình ảnh và từ thơ mới, độc đáo.

Thuỳ Linh

//hoc360.net/phan-tich-tac-pham-cha-con-nghia-nang-ho-bieu-chanh/

//hoc360.net/phan-tich-truyen-ngan-hai-dua-tre-thach-lam/

Related

Video liên quan

Chủ Đề