Kể lại truyền sự tích bánh chưng, bánh dày

Đề bài: Hãy kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giày theo trí tưởng tượng của em

Hãy kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giày theo trí tưởng tượng của em

Bài làm:

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, khi quây quần bên mâm cỗ, nhìn thấy hai thứ bánh chưng và bánh giầy, em lại nhớ đến câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy.

Lang Liêu là người con thứ mười tám của vua Hùng Vương. Tuy là hoàng tử nhưng chàng lại sống cuộc sống gần gũi với những người nông dân, chàng vốn thiệt thòi hơn so với các anh em của mình. Nhưng không lấy điều đó làm buồn, chàng yêu lao động và yêu những con người nông dân hiền lành, chất phác. Chàng suốt ngày ở ngoài đồng ruộng, vui vẻ với công việc đồng áng. Trong nhà chàng chẳng có gì, chỉ có lúa gạo và ngô khoai làm bạn. Sắp đến ngày lễ Tiên vương, vua cha cho gọi tất cả các con trai đến và phán: "Ta tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho người nào có thể nối được chí ta. Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho".

Nghe xong yêu cầu của vua cha, các lang ai cũng mừng vì chắc mẩm phần thắng nhất định sẽ thuộc về mình. Bởi thế, các lang đều cho người đi tìm những của ngon vật lạ, sản vật quý hiếm ở khắp mọi nơi trên thế gian này. Đối với Lang Liêu, chàng cũng có ước muốn được nối ngôi vua. Nhưng không phải vì chức tước mà chàng chỉ muốn đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ cho những người nông dân chân lấm, tay bùn. Sống cùng với những người dân nghèo nên Lang Liêu hiểu được nỗi khổ của họ. Về đến nhà, chàng suy nghĩ mãi xem sẽ dâng lễ vật gì cho ngày lễ Tiên vương. Chàng không có điều kiện như các anh mình, chàng chỉ có những thứ dân dã mà có lẽ vua chưa từng ăn. Bởi trong cung, người đã quen với các loại sơn hào hải vị. Chàng suy nghĩ, lo lắng không biết dâng lễ vật gì để tỏ tấm lòng mình. Một đêm, chàng gặp một vị thần râu tóc bạc phơ, cưỡi mây đến và nói với chàng: "Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, hiếm nhưng con người không làm ra được, chỉ có lúa gạo thì ta trồng được". Tỉnh dậy, lời thần cứ văng vẳng bên tai, Lang Liêu suy nghĩ cách làm bánh từ những sản vật dân dã hàng ngày. Chàng chọn thứ gạo nếp thật ngon, đem vo sạch, lấy đậu xanh và đồ thịt làm nhân, lấy lá dong bọc ra ngoài cùng, đem nấu thật nhừ. Cũng thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày lễ Tiên vương, trước bao nhiêu mâm lễ vật chất đầy những sơn hào hải vị, của ngon vật lạ được các lang cho người đi tìm kiếm khắp nơi mang về, mâm lễ vật của Lang Liêu trông thật đơn giản, chỉ có hai thứ bánh. Một thứ bánh màu xanh, hình vuông vắn, và một thứ bánh hình tròn, màu trắng. Nhưng mâm lễ của Lang Liêu khiến cho ai nấy cũng tò mò bởi họ chưa nhìn thấy hai thứ bánh ấy bao giờ. Các anh của Lang Liêu cũng thấy lạ, bao của ngon vật lạ họ đã từng ăn duy chỉ có hai thứ bánh kỳ lạ ấy là chưa từng được nếm thử.

Vua đi một lượt, nhìn các mâm lễ và dừng lại ở mâm của Lang Liêu. Vừa nhìn, nhà vua đã ưng ý ngay. Vua cảm thấy sự gần gũi và thân quen của hương vị quê hương. Vua liền chọn mâm lễ của Lang Liêu dâng lên cúng Tiên vương. Khi lễ xong, vua đem bánh chia cho mọi người, ai ăn cũng thấy lạ miệng và rất ngon. Mọi người đều tấm tắc khen.

Vua vui mừng đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng còn bánh hình tròn là bánh giầy. Bánh chưng là tượng trưng cho Đất, bánh giầy là tượng trưng cho Trời. Hai thứ bánh ấy, một tượng Đất, một tượng Trời, thể hiện sự giao hoà giữa Trời, Đất. Trước tất cả mọi người, vua khen Lang Liêu là người đã biết sử dụng những nguyên liệu dân dã, làm ra hai thứ bánh ngon. Hai thứ bánh này nhắc ta luôn nhớ đến sự vất vả, khó nhọc của người dân khi làm ra lúa gạo. Phải luôn biết quý lúa gạo. Lang Liêu xứng đáng là người nối ngôi ta, vua vừa truyền xong, tất cả quần thân và dân chúng đều hò reo và hô vang tên chàng.

Lang Liêu, người con trai thứ mười tám của vua Hùng lên ngôi, xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc. Vua chăm lo đến đời sống của người dân, gần gũi với người nông dân. Từ đó, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ nhà nào cũng không thể thiếu hai thứ bánh này. Nó trở thành hương vị không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam.

-------------------HẾT-------------------

Như vậy chúng tôi đã gợi ý Hãy kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giày theo trí tưởng tượng của em bài tiếp theo, các em cần chuẩn bị kĩ những nội dung Soạn bài Bánh chưng, bánh giầy và cùng với phần Trong buổi lễ đăng quang Lang Liêu đã kể cho mọi người nghe về sự ra đời của hai loại bánh: Bánh chưng và bánh giầy. Hãy ghi lại lời kể ấy. để học tốt môn Ngữ Văn hơn.

Để củng cố kiến thức về bài học Bánh chưng bánh giày và rèn luyện kĩ năng kể sáng tạo, các em hãy cùng thực hành thông qua đề bài Hãy kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giày theo trí tưởng tượng của em dưới đây.

Đóng vai nhân vật Lang Liêu kể lại truyện Bánh chưng bánh giày Cảm nhận của em về sự tích Bánh chưng bánh giày Dàn ý bài đóng vai nhân vật Lang Liêu kể lại truyện Bánh chưng bánh giày Khái quát giá trị Nội dung, nghệ thuật đặc sắc truyện Bánh chưng, bánh giầy Bánh chưng, bánh giầy bánh nào tượng trưng cho đất? Phân tích nhân vật Lang Liêu trong truyền thuyết Bánh chưng, bánh giày

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu thời gian xảy ra câu chuyện: ngày xưa, đời Hùng Vương thứ sáu.

b. Thân bài:

* Vua Hùng đưa ra điều kiện để truyền ngôi:

– Hoàn cảnh để vua hùng truyền người nối ngôi: “Nhà vua tuổi đã cao nhưng lại có tới hai mươi người con trai nên không biết chọn ai”.

– Điều kiện: Người nối ngôi phải phù hợp với trí hướng của vua: “… người nối ngôi ta phải nối được trí ta, không nhất thiết phải là con trưởng.”

– Hình thức: Thông qua việc làm lễ cùng Tiên vương.

* Lang Liêu và các hoàng tử thi nhau tìm kiếm lễ vật:

– Các hoàng tử cho người đi đến khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ để đem về dâng lên vua cha.

– Mẹ của Lang Liêu trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, sau đó mất đi để lại một mình chàng. So với các anh em, chỉ có Lang Liêu là thiệt thòi nhất.

– Lang Liêu là con vua, nhưng lại sống giản dị quen với việc “ chăm lo đồng áng, trồng lúa trồng khoai.”

– Một đêm nọ, Lang Liêu nằm mơ, được thần mách bảo hãy dùng thứ gạo nếp quen thuộc làm thành lễ vật dâng vua cha.

– Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm.

– Cũng thứ gạo nếp ấy đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.

* Phong tục làm bánh chưng bánh giầy:

– Lang Liêu đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

c. Kết bài:

– Tục lệ của dân tộc ta: Hàng năm, mỗi khi Tết đến, bánh chưng bánh giầy là món ăn không thể thiếu.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Bằng một bài văn ngắn em hãy kể lại truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh được dùng nhiều nhất vào đầu năm mới. Ai cũng làm, hay là mua bánh để cúng ông bà tổ tiên, để đãi nhau, thưởng thức hương vị ngày Tết. Có thể thấy, hai loại bánh này rất nổi tiếng và mang hương vị, văn hóa của người Việt Nam. Chắc chắn rằng, khi mọi người đọc cổ tích cũng biết ngay đến chuyện bánh chưng, bánh giầy

Từ thời rất xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, sau khi đuổi được giặc Ân ra bờ cõi nước ta, vua Hùng có ý định truyền ngai vàng cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp đầu năm mới, khi mọi thứ đang tưng bừng sức sống, tràn ngập sắc xuân, vua gọi các hoàng tử đến và bảo rằng:

“Trong các con,ai tìm được thức ăn ngon để bày ra một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa và ấm cúng thì ta sẽ truyền lại ngôi vua cho người đó.” Và cuộc thi đã thật sự bắt đầu, các hoàng tử ai ai cũng đều đua nhau tìm kiếm khắp nơi những thức ăn ngon nhất, lạ nhất để dâng lên vua Hùng với mong muốn rằng, món của mình sẽ là món ăn ngon nhất, lạ và ý nghĩa nhất. Lang Liêu là hoàng tử thứ mười tám trong tất cả các hoàng tử và chàng là người con duy nhất có đức tính hiền lành, hiếu thảo. Vì mẹ hoàng tử Lang Liêu qua đời sớm nên hoàng tử thiếu người chỉ dạy, vì vậy chàng rất lo lắng không biết làm thế nào để có được một món ăn ngon và ý nghĩa vào ngày Tết.

Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:

– Lang Liêu, trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.

Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.

Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, trước sân cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các làng lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu và rất ngạc nhiên. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể việc được thần báo mộng. Vua cha nói:

– Bánh này hình vuông, tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bao bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần xung quanh để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vua hiền minh.

Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và cũng từ đấy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy đã ca ngợi các vua Hùng có công dựng nước và giải thích cho chúng ta về phong tục làm bánh chưng, bánh giầy.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Mỗi khi Tết đến xuân về, mâm cỗ nhà nào cũng có bánh chưng, bánh giầy. Nhưng các bạn có bao giờ hỏi về nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy? Vì sao khi Tết đến mọi người lại làm hai thứ bánh này. Tôi kể các bạn nghe nhé.

Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có tới hơn hai mươi người con trai. Không biết chọn ai, vua bèn gọi các con đến bảo

– Tổ tiên ta từ khi dựng nước Văn Lang đã truyền được sáu đời. Nay ta đã già, ta muốn truyền lại ngôi cho một trong số các con. Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân ngày lễ của Thiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.

Các lang ai cũng muốn ngôi báu thuộc về mình nhưng ý vua thế nào thì không ai biết. Họ chỉ biết soạn cỗ thật ngon, thật hậu lễ Tiên Vương. Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám. Trước đây, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh, ốm nặng rồi qua đời sớm. Trong các anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Vốn chăm chỉ, siêng năng, hiền từ nên, từ khi trưởng thành, chàng đã ra ở riêng, suốt ngày chú tâm vào đồng áng. Trong nhà chàng chỉ có khoai với lúa là nhiều. Nhưng khoai lúa thì tầm thường quá.

Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.

Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.

Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:

– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hãy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.

Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.

Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.

Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

Video liên quan

Chủ Đề