Khó khăn trong đánh giá học sinh

MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC kiểm tra đánh giá kết quả người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [62.82 KB, 3 trang ]

MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGƯỜI HỌC
ThS. Nguyễn Huyền Trang
Kiểm tra, đánh giá kết quả người học là khâu quan trọng trong quá trình dạy
học và giáo dục. Xu hướng đánh giá mới trong giáo dục là đánh giá dựa theo năng
lực người học, tức là đánh giá khả năng tiềm ẩn của người học dựa trên kết quả đầu
ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc người học
đã thực hiện thành công các sản phẩm đó. Đánh giá năng lực nhằm giúp giáo viên
có thông tin kết quả học tập của sinh viên để điều chỉnh hoạt động giảng dạy, giúp
học sinh điều chỉnh hoạt động học tập, giúp giáo viên và nhà trường xác nhận, xếp
hạng kết quả học tập. Trong quá trình giảng dạy thực tế, giáo viên còn gặp phải một
số khó khăn trong công tác kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người
học. Cụ thể:
Một là: Bản thân người giáo viên chưa thực sự hiểu một cách sâu sắc về nội
dung và phương pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
người học. Vì vậy giáo viên còn lúng túng trong quá trình kiểm tra đánh giá. Việc
lựa chọn các câu hỏi trong các bài kiểm tra còn chưa mang lại hiệu quả tốt trong
việc đánh giá năng lực của người học, chưa có độ phân hóa người học cao. Suy nghĩ
của người giáo viên vẫn theo lối mòn của các hình thức kiểm tra và đánh giá cũ đó
là kiểm tra và đánh giá kiến thức của người học mà vẫn chưa xem trọng việc đánh
giá năng lực, quá trình học tập và sự tiến bộ của người học.
Hai là: Trong thực tế giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá còn nghèo
nàn, thiếu tính thực tiễn và sáng tạo. Phần lớn phương pháp kiểm tra đánh giá người
học chủ yếu là làm bài kiểm tra trên giấy, với các hình thức: tự luận, trắc nghiệm
khách quan và hiện tại đang tăng cường hình thức: vấn đáp, thực hành. Các hình
thức này chủ yếu là chứng minh người học nắm vững kiến thức để giải một số bài
tập hoặc giải thích một số hiện tượng liên quan đến những kiến thức đã học. Năng
lực mà người học thể hiện qua các hình thức kiểm tra đánh giá này chủ yếu là năng
lực trình bày, diễn đạt, lập luận, kĩ năng làm bài tập,…Một số kỹ năng mềm như
thuyết trình, xử lý tình huống, làm việc nhóm, tư duy độc lập sáng tạo,… rất cần
trong cuộc sống nhưng khó xác định với cách kiểm tra, đánh giá như trên. Các


phương pháp như người học tự đánh giá, đánh giá theo dự án,… mới chỉ được thực
hiện trong một vài học phần hoặc trong các đề tài nghiên cứu khoa học.
Ba là: Kiểm tra đánh giá tập trung nhiều vào mục tiêu dạy kiến thức mà chưa
chú trọng đến mục tiêu kỹ năng của người học. Việc đo lường năng lực người học
chủ yếu dựa vào điểm số các bài thi, trong khi những tiêu chí rất quan trọng như sức
khỏe, kĩ năng sống, lý tưởng của người học chưa được quan tâm đúng mức. Chính
vì vậy mọi hoạt động của nhà trường đặt trọng tâm vào các kỳ thi, những hoạt động
khác nhằm rèn luyện đạo đức, nâng cao sức khỏe, nâng cao kĩ năng sống chưa đúng
với vai trò và tầm quan trọng của nó. Kiểm tra đánh giá hiện nay chưa chú trọng
đến kỹ năng, thái độ của người học, đôi khi còn mang tính áp đặt. Việc kiểm tra
đánh giá hiện nay chưa làm tăng cường một số kỹ năng ở người học như: kỹ năng
làm việc độc lập, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, khả
năng hợp tác với những người xung quanh, khả năng giải quyết xung đột cá nhân,
mức độ tham gia các hoạt động tập thể, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng đặt
mục tiêu để hoàn thiện trong tương lai.
Việc đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học còn chưa được đề cao.
Việc coi trọng đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học không chỉ có tác
dụng hỗ trợ giúp đỡ người học tiến bộ mà sự phối hợp giữa giáo viên và gia đình
trong việc giáo dục người học cũng sẽ được nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, sự phối
hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong đánh giá học sinh còn chưa được quan tâm
đúng mực. Đa phần việc liên hệ với gia đình người học chỉ trong những trường hợp
cảnh cáo kết quả học tập.
Bốn là: Mỗi một học phần có 3-4 bài kiểm tra định kì, việc kiểm tra theo hình
thức này đôi khi còn chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đánh giá đúng thực chất cả
quá trình học tập của người học và chưa thể hiện được những năng lực người học có
và cần có trong học tập và cuộc sống.
Ngoài ra, quá trình tự học chưa được người học nhận thức đúng, người học
chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Một số bộ phận người
học đến sát kì thi mới học, học tủ, học lệch, chưa coi trọng các môn học, chỉ học để
đối phó với các kỳ thi mà chưa nhận thức được ý nghĩa của các môn học trong quá


trình hình thành kiến thức cũng như kĩ năng sống cho bản thân. Người học chưa chủ
đông trong quá trình kiểm tra đánh giá, còn chưa có ý thức trong việc phát huy các
năng lực của bản thân, còn ỉ lại, không chịu khó học hỏi và ngại tham gia các hoạt
động tập thể cũng như các hoạt động ngoại khóa.
Bên cạnh đó các kĩ năng mềm của người học còn hạn chế và chưa được
người học thực sự quan tâm. Trong quá trình lên lớp người học còn e ngại trong
việc thể hiện bản thân mình, chưa chủ động và tích cực trao đổi, giao lưu với bạn bè
và giáo viên về các kiến thức chưa hiểu rõ. Khả năng làm việc một cách độc lập của
người học còn chưa tốt, mặt khác việc hợp tác làm việc nhóm cũng chưa đạt hiệu
quả cao. Thực trạng khi giao bài tập nhóm thì chỉ một vài cá nhân học khá làm bài
thay cho cả nhóm và thiếu sự trao đổi chung cũng như sự làm việc của tất cả các cá
nhân trong nhóm. Kĩ năng thuyết trình trước đám đông chưa được người học quan
tâm nhiều. Khi được giao bài trình bày trước tập thể thì người học thường đùn đẩy
nhau mà chưa tự giác và chưa ý thức về nhiệm vụ của mình. Kĩ năng sử dụng công
nghệ thông tin trong các bài học, bài thảo luận, bài thuyết trình của người học còn
chưa tốt. Các học phần tin học còn chưa thực sự thu hút được người học dẫn đến
tình trạng người học học một cách chống chế và qua loa và chưa ứng dụng những gì
đã được học vào trong thực tiễn. Bên cạnh những yếu tố tích cực, sự hiện đại của
mạng xã hội, của công nghệ thông tin mang đến cho người học đời sống ảo dẫn đến
sự hợp tác làm việc trong đời thực, chẳng hạn sự hợp tác để làm việc nhóm giải
quyết các bài tập lớn còn hạn chế. Người học còn thiếu sự quan tâm lẫn nhau và
thậm chí một số người học còn thờ ơ lãnh đạm với những người xung quanh. Điều
này dẫn đến kết quả của bài tập lớn còn chưa phản ánh đúng thực trạng của việc hợp
tác nhóm.
Trên đây là một số khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện việc kiểm
tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học mà cá nhân tôi muốn trao đổi,
nhằm tìm ra các giải pháp để cải thiện tình trạng kiểm tra đánh giá hiện nay cũng
như để phát huy tốt nhất những năng lực của người học, để việc kiểm tra đánh giá
kết quả sẽ phản ánh đúng những gì người học cố gắng trong suốt quá trình học tập.
Hơn nữa, để người học nhìn vào kết quả kiểm tra đánh giá để cố gắng hoàn thiện


bản thân mình cả về kiến thức và kĩ năng sống. Để người học có thể phát huy hết
những năng lực mà mình có. Và người học sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CÔNG tác KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO HƯỚNG TIẾP cận NĂNG lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [93.75 KB, 5 trang ]

NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO HƯỚNG TIẾP
CẬN NĂNG LỰC

I. Đặt vấn đề
Kiểm tra, đánh giá kết quả người học là khâu quan trọng trong quá trình
dạy học và giáo dục. Xu hướng đánh giá mới trong giáo dục là đánh giá dựa
theo năng lực người học, tức là đánh giá khả năng tiềm ẩn của người học dựa
trên kết quả đầu ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh
chứng về việc người học đã thực hiện thành công các sản phẩm đó. Đánh giá
năng lực nhằm giúp giáo viên có thông tin kết quả học tập của người học để
điều chỉnh hoạt động giảng dạy, giúp người học điều chỉnh hoạt động học tập,
giúp giáo viên và nhà trường xác nhận, xếp hạng kết quả học tập. Đáp ứng yêu
cầu đổi mới trong giáo dục, ngành ĐHSP Toán trường Đại học Hùng Vương
đã điều chỉnh và thay đổi để người học sau khi ra trường có thể đáp ứng được
những yêu cầu đổi mới giáo dục và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy vậy trong
quá trình giảng dạy thực tế, giáo viên còn gặp phải một số khó khăn trong
công tác kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học. Trong nội
dung báo cáo này tôi xin trao đổi về một số khó khăn của giáo viên trong quá
trình kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học ở các năng lực
cụ thể sau:
+ Năng lực hiểu biết tốt về môn học, bao gồm: am hiểu chương trình môn
Toán ở trường phổ thông, có thể giải các bài toán ở mức độ phổ thông.
+ Năng lực chuẩn đoán, đo trình độ học sinh trong học tập môn Toán [nhằm
nắm được mức độ hiểu biết toán học của học sinh tại thời điểm bắt đầu nội
dung bài học và sự tiến bộ của học sinh sau khi học nội dung đó].
+ Năng lực mô hình hóa toán học từ những tình huống thực tiễn giả định hoặc
tình huống thực trong cuộc sống.
+ Năng lực tự học toán với phương pháp phù hợp, đồng thời hợp tác được với
người khác một cách hiệu quả trong quá trình học tập toán.
II. Những khó khăn trong công tác kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận
năng lực người học




1. Khó khăn trong công tác kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
hiểu biết tốt về môn học.
Năng lực hiểu biết tốt về môn học, bao gồm: am hiểu chương trình môn
Toán ở trường phổ thông, có thể giải các bài toán ở mức độ phổ thông. Trong
chương trình Toán phổ thông, hệ thống kiến thức toán được trình bày khoa
học, logic và chính xác. Tuy nhiên người học chưa có cái nhìn tổng quát về
chương trình toán phổ thông nên chưa thực sự hiểu rõ sự liên hệ giữa các kiến
thức trong SGK. Trong quá trình đào tạo, người học chưa thấy được mối quan
hệ giữa các học phần toán cao cấp với toán phổ thông nên còn chưa đào sâu
tìm hiểu kiến thức và đôi khi học các học phần toán chuyên ngành một cách
chống đối. Đối với các học phần như: Đại số sơ cấp, Hình học sơ cấp, Rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên khá gần gũi với toán phổ thông đã
giúp người học rèn luyện nhiều kiến thức, kĩ năng giải toán phổ thông. Tuy
vậy, chẳng hạn học phần Rèn luyện NVSP thường xuyên, một số sinh viên chỉ
soạn các bài được giao mà ngại tìm hiểu toàn bộ chương trình toán phổ thông
cũng như tìm hiểu mối liên hệ giữa nội dung được giao với các nội dung khác
trong chương trình. Học phần Đại số sơ cấp và THGT, Hình học sơ cấp và
THGT, một số sinh viên còn làm dụng sách giáo viên hoặc các sách giải bài
tập mà chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo để có được bài giảng hay
cũng như các cách giải bài tập hay và thú vị. Chính vì vậy đã gây khó khăn
trong quá trình kiểm tra đánh giá năng lực hiểu biết tốt môn học của sinh viên.
Bên cạnh đó, việc chưa chịu khó đào sâu kiến thức của môn học sẽ làm
cho người học có cái nhìn hạn chế trong mối quan hệ liên môn giữa các môn
học trong chương trình.
2. Khó khăn trong công tác kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
chuẩn đoán, đo trình độ người học trong học tập môn Toán.
Trong quá trình dạy học, việc kiểm tra đánh giá năng lực chuẩn đoán, đo
trình độ người học trong học tập môn toán còn gặp một số khó khăn như: Làm


thế nào để thiết kế kiểm tra, để đo được mức độ hiểu biết toán học của 1 học
phần nào đó tại thời điểm bắt đầu một nội dung và sau khi kết thúc một nội
dung để thấy được sự tiến bộ của người học một cách tương đối chính xác.


Trong thực tế giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá còn nghèo nàn,
thiếu tính thực tiễn và sáng tạo. Phần lớn phương pháp kiểm tra đánh giá
người học chủ yếu là làm bài kiểm tra trên giấy, với các hình thức: tự luận,
trắc nghiệm khách quan và hiện tại đang tăng cường hình thức: vấn đáp, thực
hành. Các hình thức này chủ yếu là chứng minh người học nắm vững kiến
thức để giải một số bài tập hoặc giải thích một số hiện tượng liên quan đến
những kiến thức đã học. Năng lực mà người học thể hiện qua các hình thức
kiểm tra đánh giá này chủ yếu là năng lực trình bày, diễn đạt, lập luận, kĩ năng
làm bài tập,…Một số kỹ năng mềm như thuyết trình, xử lý tình huống, làm
việc nhóm, tư duy độc lập sáng tạo,… rất cần trong cuộc sống nhưng khó xác
định với cách kiểm tra, đánh giá như trên. Các phương pháp như người học tự
đánh giá, đánh giá theo dự án,… mới chỉ được thực hiện trong một vài học
phần hoặc trong các đề tài nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh đó, kiểm tra đánh giá tập trung nhiều vào mục tiêu dạy kiến
thức mà chưa chú trọng đến mục tiêu kỹ năng của người học. Việc đo lường
năng lực người học chủ yếu dựa vào điểm số các bài thi, trong khi những tiêu
chí rất quan trọng như sức khỏe, kĩ năng sống, lý tưởng của người học chưa
được quan tâm đúng mức. Kiểm tra đánh giá hiện nay chưa chú trọng đến kỹ
năng, thái độ của người học, đôi khi còn mang tính áp đặt. Việc kiểm tra đánh
giá hiện nay chưa làm tăng cường một số kỹ năng ở người học.
Chẳng hạn trong học phần Giải tích toán học 1, Phương pháp dạy học đại
cương môn Toán việc kiểm tra vấn đáp – thực hành đã đem lại nhiều kết quả
tốt trong việc đánh giá quá trình học tập của người học. Tuy nhiên, người học
thường học tủ và học thuộc lòng mà chưa chú ý đến ý nghĩa, ứng dụng của các
kiến thức. Khi hỏi các vấn đề lý thuyết, người học rất thuộc và trả lời trôi chảy


nhưng khi đưa ra một vấn đề toán học và yêu cầu người học vận dụng thì
người học rất lúng túng và khó khăn để hoàn thành. Do đó việc đo lường được
tương đối chính xác trình độ của người học là một vấn đề khó khăn, cần đến
nhiều kĩ năng cũng như phương pháp để đánh giá đúng.
3. Khó khăn trong công tác kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
mô hình hóa toán học từ các tình huống thực tiễn giả định hoặc tình huống
thực trong cuộc sống


Trong quá trình học tập, người học còn chưa thực sự quan tâm tới mối
liên hệ giữa toán học và thực tiễn cuộc sống nên chỉ chăm chú vào việc học lý
thuyết và giải các bài tập được giao. Người học cũng chưa có thói quen hoặc
chưa biết mô hình hóa các bài toán thực tiễn giả định hoặc tình huống thực
trong cuộc sống thành các bài toán hoặc các mô hình toán học. Người học
nhiều khi chỉ học một cách thụ động, thiếu sự linh hoạt và sáng tạo. Do đó
nhiều em chưa thể tự giải được bài tập, hoặc nếu giải bài tập thì là các bài toán
truyền thống, ít quan tâm đến việc liên hệ kiến thức toán học với thực tiễn đời
sống, vận dụng kiến thức, kĩ năng toán vào các môn học khác hoặc các tình
huống thực tế. Do đó gây ra sự khó khăn trong quá trình kiểm tra đánh giá.
Bên cạnh đó, các đề thi môn toán hiện nay rất ít các bài toán có nội dung
thực tiễn. Điều này dẫn đến một hậu quả là giáo viên không chú trọng dạy cho
người học cách giải quyết các bài toán thực tiễn, người học chưa thấy rõ ứng
dụng của toán học. Mỗi một học phần có 3-4 bài kiểm tra định kì, việc kiểm
tra theo hình thức này đôi khi còn chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đánh giá
đúng thực chất cả quá trình học tập của người học và chưa thể hiện được
những năng lực người học có và cần có trong học tập và cuộc sống.
Cụ thể trong học phần Toán cao cấp C có rất nhiều mảng kiến thức liên quan
và ứng dụng trong kinh tế, song khi giảng dạy nhiều sinh viên chưa nhận thức
được mối liên hệ và tầm quan trọng của kiến thức nên còn ít quan tâm. Học
phần Xác suất và thống kê có rất nhiều ứng dụng và liên hệ thực tế, song khi


giao bài làm nhóm cần các số liệu thực tế thì người học còn lười, chưa chịu
khó lấy số liệu thực tế cũng như chưa tích cực hoạt động nhóm để tham gia
các quá trình xử lý số liệu nhằm hình thành các kĩ năng làm việc cho mình.
Hoặc khi đưa ra các tình huống giả định để nhằm hình thành các mô hình kinh
doanh hoặc bài toán thống kê, người học lúng túng khi xây dựng mô hình
cũng như chuyển đổi từ ngôn ngữ thực tế sang ngôn ngữ toán học.
4. Khó khăn trong công tác kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
tự học toán với phương pháp phù hợp, đồng thời hợp tác được với người
khác một cách hiệu quả trong quá trình học tập toán
Năng lực tự học toán là một trong những năng lực quan trong và cốt lõi.
Nếu không có khả năng tự học thì người học sẽ bị tụt hậu và không thể đáp
ứng được nhu cầu của một xã hội phát triển. Tuy nhiên, quá trình tự học chưa


được người học nhận thức đúng, người học chưa dành nhiều thời gian cho việc
tự học, tự nghiên cứu. Một số bộ phận người học đến sát kì thi mới học, học
tủ, học lệch, chưa coi trọng các môn học, chỉ học để đối phó với các kỳ thi mà
chưa nhận thức được ý nghĩa của các môn học trong quá trình hình thành kiến
thức cũng như kĩ năng sống cho bản thân. Người học chưa chủ động trong quá
trình kiểm tra đánh giá, còn chưa có ý thức trong việc phát huy các năng lực
của bản thân, còn ỉ lại, không chịu khó học hỏi và ngại tham gia các hoạt động
tập thể cũng như các hoạt động ngoại khóa.
Trong quá trình lên lớp người học còn e ngại trong việc thể hiện bản
thân mình, chưa chủ động và tích cực trao đổi, giao lưu với bạn bè và giáo
viên về các kiến thức chưa hiểu rõ. Khả năng làm việc một cách độc lập của
người học còn chưa tốt, mặt khác việc hợp tác làm việc nhóm cũng chưa đạt
hiệu quả cao. Thực trạng khi giao bài tập nhóm thì chỉ một vài cá nhân học
khá làm bài thay cho cả nhóm và thiếu sự trao đổi chung cũng như sự làm việc
của tất cả các cá nhân trong nhóm. Kĩ năng thuyết trình trước đám đông chưa
được người học quan tâm nhiều. Khi được giao bài trình bày trước tập thể thì


người học thường đùn đẩy nhau mà chưa tự giác và chưa ý thức về nhiệm vụ
của mình. Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin trong các bài học, bài thảo
luận, bài thuyết trình của người học còn chưa tốt. Điều này dẫn đến kết quả
của bài tập lớn còn chưa phản ánh đúng thực trạng của việc hợp tác nhóm.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là một số khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện việc
kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học mà cá nhân tôi
muốn trao đổi, nhằm tìm ra các giải pháp để cải thiện tình trạng kiểm tra đánh
giá hiện nay cũng như để phát huy tốt nhất những năng lực của người học, để
việc kiểm tra đánh giá kết quả sẽ phản ánh đúng những gì người học cố gắng
trong suốt quá trình học tập. Hơn nữa, để người học nhìn vào kết quả kiểm tra
đánh giá để cố gắng hoàn thiện bản thân mình cả về kiến thức và kĩ năng sống.
Để người học có thể phát huy hết những năng lực mà mình có. Và người học
sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội.



Thuận lợi, khó khăn trong việc đổi mới đánh giá học sinh cấp Tiểu học

ĐTO - Hiện toàn tỉnh có 311 trường Tiểu học [TH], 14 trường TH, THCS thực hiện đánh giá học sinh [HS] TH theo quy định mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo [GD&ĐT] dựa theo Thông tư số 30, Thông tư số 22 và Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ban hành quy định đánh giá HSTH. Đánh giá HS theo quy định mới, đặc biệt theo Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT giảm áp lực về điểm số trong quá trình học tập, rèn luyện.


Học sinh Tiểu học được đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo Văn bản hợp nhất số 03 [ảnh tư liệu]

Quán triệt, triển khai, thực hiện đánh giá theo quy định mới của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT đã có công văn hướng dẫn đến các đơn vị trực thuộc, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, tại các buổi đối thoại với người dân, cán bộ, giáo viên [GV], phụ huynh [PH] HS. Đội ngũ GVTH được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ từ cấp tỉnh đến cấp huyện, tập huấn theo cụm trường, chia nhiều đợt, nhiều lớp. Sở GD&ĐT tổ chức 6 hội giảng, thao giảng chuyên môn giáo dục TH cấp tỉnh tại TP.Sa Đéc, huyện Tân Hồng, Tam Nông. Tổ chức 13 tiết dạy, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp dạy học, giáo dục hòa nhập. Lãnh đạo Phòng GD&ĐT xây dựng kế hoạch triển khai, đánh giá HSTH, thành lập Tổ công tác chuyên môn kịp thời hỗ trợ GV trong quá trình thực hiện. GV áp dụng đánh giá mới đối với HS, chủ động điều chỉnh hình thức, nội dung dạy học, giúp đỡ những HS còn hạn chế. GV thể hiện tinh thần trách nhiệm, hỗ trợ giúp đỡ, đánh giá đúng khả năng của HS. Hoạt động bàn giao chất lượng giáo dục cuối năm học được các đơn vị trường rà soát, không để HS không đạt chuẩn lên lớp. Những HS thật sự giỏi sẽ được khen thưởng theo quy định, không khen thưởng tràn lan gây bức xúc cho PHHS.

Việc nhận xét, đánh giá kết quả học tập theo phương pháp mới không đánh giá bằng điểm số phần nào giải tỏa tâm lý áp lực, tự ti, thua kém bạn bè của các em HS có học lực trung bình, yếu. Với 3 mức đánh giá “Hoàn thành tốt”, “Hoàn thành”, “Chưa hoàn thành” giúp các em HS phát hiện những hạn chế để cố gắng hơn trong học tập. Một số em HS có học lực khá, giỏi được GV khuyến khích hướng dẫn, giúp đỡ những bạn có học lực trung bình, yếu. Những HS giỏi được tạo điều kiện rèn luyện phát huy năng khiếu, năng lực học tập, biết đoàn kết thương yêu giúp đỡ bạn trở thành những tấm gương tốt.

Anh Nguyễn Văn Hậu ngụ phường 2, TP.Cao Lãnh có con học tại Trường TH Chu Văn An, TP. Cao Lãnh cho biết: “Cả lớp 1 và lớp 2 cháu đều được đánh giá bằng hình thức hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành chứ không ghi điểm số cụ thể. Con tôi ngoài giờ học, tham gia các hoạt động phong trào trong trường. Cuối năm học vừa qua, cháu được nhận phần thưởng do hoàn thành tốt. Những hạn chế của cháu trong khi học được GV thường xuyên thông tin cho tôi biết, vì vậy tôi nghĩ GV nhận xét về cháu những điểm mạnh, yếu cũng khá chính xác”. Cho biết ý kiến về cách đánh giá đối với HSTH, chị Nguyễn Thị Ngọc Hương ngụ khóm II, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười cho biết: “Nếu muốn kiểm tra, quản lý việc học của con mình tốt, sau giờ học, PHHS phải mở tập kiểm tra thêm xem con làm bài như thế nào để biết bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho con, chứ không thể giao hết cho thầy, cô trong trường”.

Đối với HS khối lớp 4 và lớp 5, riêng môn Toán, Tiếng Việt có thêm bài kiểm tra định kỳ giữa học kỳ, giúp GV, HS, PHHS có thêm thông tin về kết quả học tập.

Cùng với những thuận lợi, đánh giá HS theo quy định mới GV sẽ gặp khó khăn bởi tâm lý một số PHHS vẫn còn “thích” điểm số. Bản thân GV quen với phương pháp giảng dạy cũ sẽ khó và chậm khi thực hiện điều chỉnh phương pháp giảng dạy mới. Ban giám hiệu các trường khó đánh giá chất lượng học tập của HS, chất lượng, năng lực giảng dạy của GV. Một số GV chưa tận tâm khi nhận xét vào vở, sản phẩm học tập của HS, nên PHHS chưa có nhiều thông tin về con em của mình để có phương pháp bồi dưỡng kịp thời.

Năm học 2018 – 2019, HS TH tiếp tục được đánh giá theo Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT. Sở GD&ĐT đã xây dựng các kế hoạch tổ chức hoạt động chuyên môn cấp tỉnh, huyện, thị xã, thành phố, chủ động phối hợp cùng PHHS. Đồng thời, kiến nghị Bộ GD&ĐT sớm điều chỉnh, nâng cấp các phần mềm để các đơn vị xử lý số liệu thuận lợi. Tổ chức hội nghị sơ kết phạm vi toàn quốc giúp các địa phương chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm.

C.Phương

Rào cản không dễ phá vỡ sau những đột phá về đánh giá học sinh

Thông tư 22 về đánh giá học sinh THCS, THPT đem lại nhiều ưu điểm và có những thay đổi tiến bộ. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, vai trò của giáo viên - những người trực tiếp thực thi công tác đánh giá học sinh là rất lớn.

Từ năm học 2021-2022, thông tư 22 sẽ có hiệu lực với lớp 6, đồng thời thông tư cũng định hướng cho sự thay đổi đánh giá học sinh trong các trường trung học theo lộ trình thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Để triển khai hiệu quả, vai trò của giáo viên - những người trực tiếp thực thi công tác đánh giá học sinh là rất lớn.

Sự thay đổi quan trọng nhất của thông tư này chính là mục đích đánh giá. Trước đây, việc đánh giá chất lượng giáo dục đối với học sinh được thể hiện sau mỗi học kỳ, mỗi năm học nhằm thúc đẩy học sinh rèn luyện, học tập thì thông tư này đề ra mục đích: “Đánh giá nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh theo yêu cầu cần đạt được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông; cung cấp thông tin chính xác, kịp thời để học sinh điều chỉnh hoạt động rèn luyện và học tập, cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy học”.

Đây là thay đổi rất quan trọng, là sự tiến bộ rất lớn bởi nó thể hiện thống nhất mục tiêu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông và tiếp cận đánh giá vì sự tiến bộ, giúp người dạy, người học tự điều chỉnh quá trình giáo dục, giúp kết quả giáo dục bền vững mà quốc tế đã và đang thực thi.

Để đạt được mục đích này, chủ thể của quá trình đánh giá bao gồm các giáo viên, học sinh, nhà trường, các cấp quản lý giáo dục cần thay đổi cả nhận thức, phương thức, nội dung công cụ đánh giá. Đánh giá học sinh được thực hiện liên tục, thường xuyên, toàn diện bao gồm thái độ, phẩm chất, kĩ năng và cả sự trưởng thành về kiến thức.

Nhiều điểm đột phá

Nét mới và cũng là ưu điểm của thông tư 22 là nội dung đánh giá, định hướng giáo dục toàn diện, đánh giá trong suốt quá trình học tập. Điều 8 về đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh cho thấy, nội dung đánh giá gắn liền với mô tả phẩm chất và năng lực chung trong chương trình; đòi hỏi đánh giá quá trình thường xuyên, liên tục; có phân biệt kết quả từng kỳ.

Đây là sự cụ thể và có định hướng rõ ràng hơn so với trước đó, việc đánh giá “hạnh kiểm” chủ yếu dựa vào kết quả của học kì II. Các căn cứ để đánh giá kết quả rèn luyện cũng chỉ rõ vai trò, chức năng của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, môn học nào cũng có trách nhiệm trong đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh.

Bên cạnh đó, Điều 9 về đánh giá kết quả học tập của học sinh kết hợp với Điều 5 cũng thể hiện tính mới, khi mang tính định hướng sử dụng các hình thức đánh giá phù hợp sẽ giúp cho thông tin về kết quả đánh giá phản ánh đúng lực của học sinh.

Đặc biệt, thông tư này đã làm rõ vai trò, chức năng và thời điểm đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ. Việc này giúp định hướng cách học của học sinh và đòi hỏi tính chuyên môn cao của giáo viên trong đánh giá học sinh.

Một ưu điểm mang tính đột phá của thông tư 22 là các tiêu chí xếp loại. Việc bỏ tiêu chí điểm trung bình chung các môn học sẽ tạo ra tính bình đẳng giữa các môn, tránh hiện tượng học lệch, loại bỏ hiện tượng lấy điểm môn này bù vào điểm môn kia để đạt một mức xếp loại theo kỳ vọng, hoặc đặt trọng số vào một số môn như Toán, Văn -Tiếng Việt, Tiếng Anh, dẫn đến ý niệm về môn chính/ môn phụ.

Bên cạnh đó, các danh hiệu, tiêu chí xếp loại dựa vào kết quả “phần lớn các môn học” cũng đòi hỏi học sinh phải học toàn diện, tạo điều kiện cho học sinh phát huy sở trường, sở thích của học sinh.

Tuy nhiên, xét theo mục đích sử dụng kết quả học tập, chẳng hạn trong phân luồng, định hướng nghề nghiệp, thì các thông tin trong học bạ cần chi tiết hơn để phục vụ cho chuyển cấp.

Ví dụ, đối với THPT, học sinh đã học theo các chuyên đề tự chọn để định hướng nghề nghiệp. Điều đó có thể dẫn đến kết quả học tập của các em ở các nhóm chuyên đề là khác nhau, được xếp loại ở mức độ khác nhau, gây ra tình trạng thiếu thông tin cho nhà tuyển dụng, thiếu công bằng đối với từng nhóm học sinh.

Ba thách thức

Với những ưu điểm như trên, thông tư 22 có cơ hội tạo ra sự thay đổi lớn, tích cực cho giáo dục trung học nói riêng, giáo dục phổ thông nói chung. Để thực hiện được những quy định của thông tư, chúng ta cần đạt được những điều kiện nhất định.

Thứ nhất, đó là năng lực triển khai của hệ thống giáo dục, trong đó đặt trọng tâm vào các giáo viên - những người trực tiếp thực thi công tác đánh giá học sinh. Giáo viên là trung tâm, là đối tượng cần được hướng dẫn, cần thay đổi nhất cho quá trình thực hiện thông tư này.

Giáo viên cần được trang bị, rèn luyện để thực hành được các công cụ đánh giá trên lớp học một cách phù hợp. Hiện nay, dù rất cố gắng, nhưng không ít giáo viên vẫn chưa được tập huấn về các công cụ đánh giá trên lớp, vận dụng cụ thể vào môn học của họ. Đồng thời, việc triển khai chương trình hiện nay khiến tài liệu dạy học, nội dung dạy học,… chưa được cập nhật cùng với cách đánh giá một cách đồng bộ. Đó là những trở ngại cho giáo viên.

Bên cạnh đó, việc giáo viên bộ môn vừa đánh giá bằng nhận xét, vừa đánh giá bằng điểm cũng có thể gây ra sự lúng túng hoặc quá tải bước đầu nếu họ không được hướng dẫn kỹ. Vì thế, cần phải có sự đầu tư và thực thi hiệu quả hơn nữa cho việc hướng dẫn giáo viên, để họ có được sự nhuần nhuyễn trong giảng dạy kết hợp với đánh giá quá trình học tập của học sinh.

Thứ hai, là các điều kiện kỹ thuật bao gồm điều kiện lớp học, cơ sở vật chất,… Ở mỗi địa phương, các điều kiện này có những nét riêng. Để triển khai được các nội dung trong quy định của thông tư, bắt buộc phải có sự đầu tư về hạ tầng, về các điều kiện lớp học.

Hiện tượng lớp học quá đông học sinh, thiếu các mô hình, kỹ thuật hỗ trợ đánh giá, điều kiện triển khai dạy các môn được đánh giá bằng nhận xét sẽ gặp khó khăn, có thể gây ra tính trạng lạm phát sổ sách, đánh giá hình thức.

Các địa phương trong phạm vi trách nhiệm của mình cần có chiến lược về thi và sử dụng kết quả đánh giá, phân luồng học sinh tránh tình trạng một mặt yêu cầu đổi mới trong quá trình, nhưng không có sự thống nhất trong sử dụng kết quả hoặc không có sự đầu tư cho thực thi tương xứng.

Thứ 3, là những vấn đề thuộc về tâm lý của phụ huynh, học sinh và cộng đồng. Thông tư 22 có nhiều đổi mới, trong khi nề nếp, suy nghĩ muốn ổn định, thói quen cũ vẫn đang phổ biến,… Đây là rào cản lớn không dễ phá vỡ trong thời gian ngắn.

Thông tư sẽ gây ra ảnh hưởng và đòi hỏi sự thay đổi toàn diện từ việc đánh giá trên lớp học đến sử dụng kết quả đánh giá như thế nào khi chuyển cấp, chuyển lớp, chuyển trường,… Rõ ràng, nó đòi hỏi tính thống nhất cao trong thực thi và đề ra các tiêu chí cụ thể về các mức độ đạt được trong phạm vi lớp học, trường học, địa phương, cho đến toàn quốc.

Đây có thể coi là một thách thức rất lớn, đòi hỏi các kỹ thuật để khắc phục được cả sự “hiểu sai, lạm quyền” của giáo viên, đến bệnh thành tích của trường học, của địa phương, tính thiếu tin cậy sẽ gây ra những hệ lụy khi sử dụng kết quả học tập cho các cấp học/tuyển sinh về sau.

Bên cạnh đó, thông tư 22 cũng đòi hỏi quá trình tự đánh giá của người học, phối hợp đánh giá giữa các giáo viên, giữa gia đình và nhà trường,… do đó, công tác quản lý và điều hành cũng gặp nhiều thách thức.

TS. Chu Cẩm Thơ – Trưởng ban Nghiên cứu Đánh giá giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam

[Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả]

Học sinh thoát áp lực phải giỏi toàn diện, sẽ giảm 'bệnh thành tích'?

Nhiều giáo viên cho rằng, quy định học sinh cần 6 môn bất kỳ đạt điểm trung bình trên 8 để được xếp học lực Tốt là một góc nhìn cởi mở. Điều này sẽ tạo động lực học tập, giúp học sinh phát huy thế mạnh.

Thầy cô làm gì khi điểm số không còn là 'thước đo' duy nhất

Thay vì “công cụ” chủ lực là điểm số, theo thông tư 22 [năm 2021] được Bộ GD-ĐT ban hành áp dụng cho học sinh trung học, sẽ sử dụng cả hình thức nói, viết để đánh giá sự tiến bộ trong học tập và rèn luyện của học sinh.

Vì sao Bộ GD-ĐT bỏ tính điểm trung bình các môn học cấp THCS, THPT?

Đại diện Bộ GD-ĐT đã làm rõ những nội dung trong thông tư 22 vừa ban hành quy định việc đánh giá học sinh THCS và THPT, sẽ thực hiện ngay từ ngày 5/9 năm nay với học sinh lớp 6.

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Thông tư 22 là gì?

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện thông tư 22 là gì? Nếu bạn đang quan tâm đến chủ đề này thì hãy theo dõi bài viết dưới đây!

Thông tư 22 ra đời, bổ sung thêm 13 điều trong tổng số 20 điều so với Thông tư 30 về đánh giá học sinh tiểu học và có hiệu lực từ 06/11. Và cũng không tránh khỏi việc nhiều giáo viên băn khoăn và trăn trở với thông tư 22. Vậy những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Thông tư 22 là gì? Nếu bạn đang quan tâm đến chủ đề này hãy theo dõi bài viết sau đây!

Hình 1: Đánh giá kết quả thực hiện Thông tư 22

Video liên quan

Chủ Đề