Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật A Phủ

Đề 116. Tự lựa chọn một đoạn trích trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, phân tích để làm nổi bật thành công của tác giả trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật.

Cuộc sống có muôn vàn điều bí ẩn nhưng sâu kín và bí mật nhất có lẽ vẫn là tâm hồn con người. Ấy vậy mà vẫn có những nhà thám hiểm đại tài chuyên phưu lưu khám phá thế giới đó – đó là những người nghệ sĩ văn chương. Đọc đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, bất cứ ai cũng đều ngạc nhiên, thán phục trước khả năng am hiểu nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

Chúng ta đều biết Vợ chồng A Phủ là câu chuyện rất hay về cuộc sống của người lao động miền núi. Thông qua hình tượng đôi trai gái người Mèo, Tô Hoài đã để độc giả chiêm ngưỡng về sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do cháy bỏng trong mỗi người lao động miền ngược. Mị – một cô gái có đủ những phẩm chất xứng đáng được sống cuộc sống hạnh phúc- lại phải sống kiếp làm dâu gạt nợ tủi cực. Sự áp bức nặng nề, dai dẳng của thế lực phong kiến và thần quyền miền núi mà gia đình nhà chồng là một đại diện điển hình đã làm cho Mị tê liệt hoàn toàn về tâm hồn. Mị sống mà như chết, gần như không có ý thức về sự sống: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế nhưng điều kì diệu đã xảy ra khi mùa xuân, ngày Tết về với người Mèo.

Ban đầu, Tô Hoài miêu tả khung cảnh thiên nhiên Hồng Ngài khi xuân về: “Trên các đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi, lửa (…) Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Chỉ bằng ba câu văn. tác giả đã bao quát được không gian thiên nhiên đặc trưng của cả một vùng. Với chúng ta những hình ảnh ấy vừa xa xôi, vừa gần gũi. Cái xa xôi là do khoảng cách địa lí mang đến còn cái gần gũi là bởi phong cảnh ấy dù có gió, rét dữ dội vẫn mang đến người người đọc một sự ấm áp lạ lùng. Cảm giác đó được gợi lên từ hình ảnh thật giản dị: ngô lúa xếp đầy các nhà kho, từ màu đỏ của bí, của lửa sưởi, màu vàng ủng của cỏ gianh.

Cuộc sống của con người cũng mang lại cảm giác ấm ấp, gần gũi: “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đả xoè như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi ngày Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Không khí Tết nhất, không khí của những ngày được nghỉ ngơi, vui chơi sau hàng năm dài vất vả đã hoàn toàn xua đi cái giá rét của mùa xuân trên núi cao. Trước cảnh đón Tết tưng bừng, rộn rã như thế, ai cũng muốn đi choi, cũng muốn hoà mình vào những tốp người tụm năm tụm ba là điều tất yếu.

Bằng những đoạn văn không dài, Tô Hoài đã chuẩn bị một cách chu đáo những điều kiện khách quan để nhân vật đáng thương của ông có sự trở mình, cựa quậy trong tâm hồn. Phút cuối cùng, nhà văn để cho “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” “vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Và điều kì diệu đã đến, mầm sống trong MỊ đã đội giá băng che phủ bao nhiêu năm để bật dậy: “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Phải hiểu từ khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra tâm hồn người con gái ấy đã hoàn toàn tê liệt thì mới thấy hành vi ngồi nhẩm hát của cô là điều bất thường. Sự việc nhỏ nhặt như vậy cũng được Tô Hoài quan sát và kể lại chi tiết, điều đó chứng tỏ sự nhạy cảm, tinh tế tột bậc ở nhà văn.

Những đêm tình mùa xuân đã tới, trong khi cả nhà thống lí tưng bừng ăn trong bữa rượu bên bếp lửa, “Mị cũng uống rượu”. Cách uống rượu của Mị thật khác thường. Mị uống “lén” nhưng lại “uống ùng ực từng bát” chứ không e dè, nhấm nháp từng tí một. Dường như Mị đang uống cả nỗi uất hận, tức nghẹn vào trong lòng. Rượu làm Mị say lịm nhưng lại đánh thức kí ức sống dậy nơi chị, dù chúng có hiện lên đứt nối. Hơi rượu bắt lấy tiếng sáo gọi bạn đầu làng, gợi lại trong chị thời son trẻ: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. ”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Mị bắt đầu có những hành động thức tỉnh: “Mị uốn chiếc lả trên môi, thổi lả cũng hay như thổi sáo”. Để Mị thổi sáo trong men say của rượu, Tô Hoài vẫn để nhân vật cửa mình hành động trong vô thức, chính xác hơn là trong tiềm thức. Điều đó hoàn toàn logic với quy luật tâm lí con người. Sau những cú sốc quá nặng về tinh thần, ý thức con người chi có thể thức dậy từ từ, và trước tiên phải bắt đầu từ những hồi ức về quá khứ.

Nhà văn vẫn kiên trì dõi theo sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị. Mị trở về căn buồng của mình, “trông ra cái của sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”, nhưng lần này Mị không nghĩ “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi” nữa. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Thực sự Tô Hoài rất tinh tế trong cách lựa chọn ngôn từ khi diễn tả những biến đổi trong tâm hồn Mị. Động từ “thấy” chứng minh sự thức tỉnh của cảm giác, của trạng thái tâm hồn. Mị thấy phơi phới trở lại” là sự thức tỉnh của ý thức, thức tỉnh một cách tự giác. Cảm giác ấy đã bắt nhịp một cách nhuần nhuyễn với kí ức thời con gái. Và ý muốn được đi chơi, được vui chơi như bao nhiêu người đến vói Mị là tất yếu. Cho đến giờ, những biến đổi đang diễn ra trong Mị vẫn thật hồn nhiên. Tô Hoài hiểu, trân trọng và hết sức nâng niu sự tĩnh tại trong tâm hồn nhân vật của mình, nhưng nhà văn vẫn phải theo logic tâm lí để đưa nhân vật trở về với những cay đắng trong hiện thực: “Nếu có nắm lả ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Không phải Tô Hoài phũ phàng đẩy Mị về với thực tại. Phải am hiểu con người lắm, nhà văn để Mi từ ước mơ nhỏ bé, giản đơn trở về đối diện với hoàn cảnh của mình để thấm thía nỗi cay đắng.

Nhưng tiếng sáo mùa xuân vẫn cất lên, và lần này không đơn thuần là  tiếng sáo gọi bạn” nữa mà là “tiếng sáo gọi bạn yêu”. Tô Hoài để nhân vật chông chênh giữa hai bờ thực – ảo. Một bên là tiếng sáo gọi bạn tình, một bên là người chồng vũ phụ, bạc ác đang chuẩn bị đi chơi. Mạo hiểm hơn, tác giả cố tình để nhân vật của mình có thực thi những hành động nổi loạn. Mị xắn miếng mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng nhưng cũng chính là để thắp sáng lên cuộc sống tăm tối của mình. Tô Hoài tiếp tục chứng minh sự thức tỉnh trong Mị bằng các hành động “quấn lại tóc”, “với tay lấy củi vấy hoa vắt ở phía trong vách”. Đó không phải là những hành động làm đẹp đơn thuần, chúng biểu hiện cho sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, ý thức con người trong cuộc sống.

Tô Hoài hiểu đây chưa phải là thời điểm để Mị làm cuộc cách mạng tự giải phóng mình. Thực chất sự thức tinh lần này của nhân vật là sự chuẩn bị cho những hanh động nổi loạn ở phía sau. Vậy nền, nhà văn vẫn không giải thoát Mị khỏi hành động ghì trói của A Sử mà đề cho nhân vật tỉnh táo chiêm nghiệm sâu sắc về những nôi cùng cực trong cuộc sống của chính mình: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa . Suy nghĩ của Mị làm ta nhớ đến lời than thân của cô gái trong truyện thơ “Xông chữ xôn xao của người Tày xưa: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, chỉ bằng thân con châu chuộc thối’. Nhưng chỉ từ ý thức đó Mị mới có thể thấm thìa một cách sâu sắc về thân phận của mình, và đó mới là lí do để Mị cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính mình.

Miêu tả những diễn biến nội tâm ở Mị trong đêm tình, mùa xuân, Tô Hoài đã khéo léo dẫn những thôi thúc của ngoại cảnh làm cơ cở cho sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị. Quá trình thức tỉnh đó lại dược đi dần từ những cõi xưa về cõi nay, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị, và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút Tô Hoài.

Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn hay nhất của Tô Hoài. Va đêm tình mùa xuân là đoạn trích xuất sắc nhất, thể hiện thành công nhất tài năng khắc hoạ nội tâm của nhà văn.

https://hoc360.net/phan-tich-tac-pham-cha-con-nghia-nang-ho-bieu-chanh/

https://hoc360.net/phan-tich-truyen-ngan-hai-dua-tre-thach-lam/

Phân tích tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)

Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ

Nội dung chính bài Vợ chồng A Phủ

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà còn vô cùng thành công về mặt nghệ thuật. Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện là yếu tố quan trọng góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một truyện ngắn tiêu biểu cho nền văn học thời kì này.

Nghệ thuật là hình thức của tác phẩm, là những thứ giúp cho chúng ta cảm nhận được nội dung ý nghĩa bên trong. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trước hết được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong tâm hồn của họ. Họ cùng chạy đi, cùng hướng đến ánh sáng nơi cuối con đường. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, tác phẩm đã phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.

Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm còn thể hiện ở việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là ở phương diện miêu tả tâm lí. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện những nét tính cách của người dân lao động miền núi. Mị được miêu tả với sự lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng ẩn trong đó là sức sống tiềm tàng, khao khát được tự do và hạnh phúc. A Phủ thì lại gan góc, chất phác,... Để miêu tả hai nhân vật này, tác giả đã chọn những điểm nhìn khác nhau, từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau. Ở Mị, tác giả nhấn mạnh vào những khoảnh khắc Mị suy tưởng, Mị nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Những suy ngẫm của Mị giúp chúng ta nhận ra một tâm hồn đẹp đẽ đang chết dần chết mòn, một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở A Phủ, tác giả nhấn mạnh vào hành động, để thấy được những vẻ đẹp của một người con trai vùng cao. A Phủ là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.Ngoài ra, có một chi tiết cho thấy được niềm khát khao được sống của anh, đó là vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình.

Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.

Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đó là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ giá trị nghệ thuật ấy, chúng ta có thể hiểu hơn về giá trị nhân đạo sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm: sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Nhờ những giá trị ấy, mà tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn có sức sống bền bỉ trong tâm hồn những người yêu văn chương .