So sánh common law và equity
BÀI lớn SO SÁNH Show
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.01 KB, 6 trang ) Common Law – hệ thống luật án lệ do tòa án hoàng gia Anh ban hành, nước Anh không ban cho người dân bản địa hệ thống pháp luật La Mã, mà chỉ được sử dụng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cư dân người La Mã. 2. Equity (luật công bằng). 2.1. Khái niệm. Equity là hệ thống các học thuyết và thủ tục pháp lý phát triển song song với common law được văn phòng đại pháp sử dụng trong hoạt động, nhằm sửa chữa, bổ sung, khắc phục những bất cập của quy phạm common law. 1 2.2. Đặc trưng. - Equity được áp dụng theo quy tăc: equity tôn trọng pháp luật; - Thẩm phán equity hành động bằng cách ra lệnh cho bị đơn: cấm không được xử sự theo cách này hay cách khác, và áp đặt cho bị đơn một cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của đạo đức và lương tâm; - Các giải pháp của equity thường rất mềm dẻo, mang tính tùy ý; - Thủ tục của Tòa án equity: không cần sự tham gia của bồi thẩm đoàn, xem xét vấn đề trên hồ sơ, và thẩm vấn; - Equity được áp dụng trong nhiều lĩnh vực: bồi thường thiệt hại khi không thực hiện hợp đồng, trust, hoặc trong thủ tục xử án. II. Vai trò và sự đóng góp của common law trong sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh. Common law không được tìm thấy trong các bộ luật, đạo luật, trong các bản luận về luật của các học giả pháp lý mà được tìm thấy trong các phán quyết của thẩm phán, ghi nhận lại kết quả giải quyết các vụ việc có thật trong thực tế. Từ khi common law hình thành, người Anh đã cho rằng luật do thẩm phán làm ra không chỉ là nguồn luật duy nhất mà còn là nguồn luật quan trọng ở Anh. Những thành tựu mà common law đạt được thể hiện ở sự trụ vững của common law dưới sự tác động của luật La Mã. Do sự hình thành sớm hơn so với nhiều hệ thống pháp luật ở châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Anh đã phát triển một cách tập trung và tiếp đó đã được hiện đại hóa; những tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận luật La Mã một cách có hệ thống hầu như không du nhập vào Anh và khi luật La Mã ảnh hưởng ra khắp châu Âu và tới cả Scotland, hệ thống pháp luật của Anh đã được hình thành theo con đường riêng của mình, không dễ gì thay đổi. Là “luật chung” áp dụng cho toàn bộ nước Anh, thay thế cho luật địa phương. Common law – nguồn pháp luật giữ vị trí trung tâm trong họ pháp luật án lệ, là nền tảng dựa vào đó pháp luật của Anh đã hình thành và phát triển. Common law được xem như là việc luận ra hay bộc lộ pháp luật thông qua các phán quyết của tòa án Hoàng gia. Các phán quyết của tòa án cấp trên có giá trị rằng buộc tòa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ án hiện tại. Có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vụ án ở các nước trong hệ thống pháp luật Anh. Sự hiện có của án lệ xét xử về mặt thực tế đặt quyền lực lập pháp, quyền lực tư pháp vài một hàng và từng quyền lực trong các quyền lực đó đều có thẩm quyền ban hành các văn bản khác là nguồn của pháp luật. Common law đã phát huy được nhiều yếu tố tích cực, đặc biệt là thống nhất được cách áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử của tòa án trong 2 phạm vi cả nước. Án lệ xét xử là một hiện tượng thú vị bảo đảm tính hiệu quả (nhanh chóng đưa ra quyết định trên cơ sở vụ việc tương tự đã được xem xét trước đây), tính dự báo (cho phép hoặc thu hẹp số lượng các vụ việc đang được xem xét hoặc soạn thảo trong sự phù hợp với các án lệ đã có trước đây) và tính thống nhất của thực tiễn xét xử (chỉ có một cách tiếp cận đối với các vụ việc tương tự là cách tiếp cận dựa trên cơ sở án lệ). Common law được sinh ra trong quá trình các Tòa án Hoàng gia giải quyết các vụ án cụ thể, do đó chúng ít trừu tượng hơn và tính toán cho việc giải quyết các tranh chấp cụ thể, các quy phạm của pháp luật do các thẩm phán xây dựng trong khi đưa ra các quyết định về các vụ việc cụ thể, thẩm phán thuộc dòng họ common law chỉ việc “đo thử” vụ việc cụ thể với các án lệ xét xử giống nhau đang hiện có. Hệ thống pháp luật Anh không có những bộ luật chứa đựng toàn bộ các quy phạm pháp luật, các quy định của pháp luật đôi khi được giải thích thông qua án lệ. Đặc điểm quan trọng nhất của common law là hệ thống trát – hình thức khởi kiện, có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của common law. Trát là văn bản hành chính dưới dạng một bức thư, được chứng thực bằng việc đóng dấu trên trát, được dung vào mục đích hành chính và tư pháp. Từ hệ thống trát truyền thống các luật gia Anh đã phân chia các ngành luật như: luật hình sự, luật hợp đồng, luật thương mại,… Thế kỷ XVIII, Common law được coi như biểu hiện của sự đoàn kết giữ những người Anh ở Bắc Mỹ, để đối mặt với mối đe dọa từ vùng Louisiana và vùng Canada thuộc Pháp. III. Vai trò và sự đóng góp của equity trong sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh. Sự kết hợp của hệ thống trát và nguyên tắc stare decisiscó nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,các Tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lí do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ. Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ làm cho common law trở nên phức tạp, cứng nhắc, dẫn đến bất công trong xét xử, cản trở nghiệm trọng đến sự phát triển của common law, bởi vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển các quy phạm pháp luật giải quyết những vấn đề đem đến tòa nữa.khi tình tiết vụ việc khác đi thì các thẩm phán không thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng họ không có khả năng sáng tại ra tiền lệ mới vì bị bó buộc trong khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp. Để khắc phục những bất cập này equity đã ra đời, được văn phòng đại pháp quan khai thác để giải quyết các vụ việc không được giải quyết hoặc chưa được giải quyết thỏa đáng bởi tòa án hoàng gia. Sự ra đời của equity nhằm sửa đổi, bổ sung cho 3 common law, để hoàn tất common law chứ không nhằm mục đích thay thế common law. Tòa án equity can thiệp vì “sự công bằng”, mà không thay đổi quy phạm pháp luật được tòa án common law áp dụng, trong trường hợp có sự xung đột giữa common law và equity thì equity được ưu tiên áp dụng. Thẩm phán equity chỉ can thiệp nếu hành động của bi đơn bị coi là trái lương tâm, đồng thời nguyên đơn có tư cách đạo đức tốt, có “bàn tay sạch”; thông qua việc ra lệnh cho bị đơn: cấm không được xử sự theo cách này hay cách khác, và áp đặt một các xử sự cho bị đơn phù hợp với đòi hỏi của đạo đức và lương tâm. Thủ tục của tòa án equity đơn giản hơn so với tòa án common law, equity được áp dụng khi không có trát nào điều chỉnh vụ việc, trong nhiều lĩnh vực: bồi thường thiệt hại khi không thực hiện hợp đồng, trust, hoặc trong thủ tục xử án. Đóng góp quan trọng nhất của luật công bình đối với sự phát triển của pháp luật Anh là việc tạo ra chế định “ủy thác” (trust); với bản chất là yêu cầu bên ủy thác thực hiện cam kết của mình. Chế định này ra đời ở Anh từ thế kỉ thứ XII đến thế kỉ XIII, khi người sử dụng đất ở Anh cò phải tuân thủ hàng loạt những nghĩa vụ do Nhà nước phong kiến áp đặt như nghĩa vụ nộp tô trong quá trình sử dụng đất đai và nghĩa vụ nộp thuế khi tài sản thừa kế là đất đai…chế định này coi như một phương tiện để tránh các loại thuế và nghĩa vụ. Chủ sử dụng đất thường tìm người thay mặt mình quản lí và sử dụng đất khi mình đi vắng một thời gian dài bằng cách sang tên mảnh đất của mình cho người thân hoặc người thân của mình, với điều kiện: phần đất đó phải được trả lại cho người ủy thác khi anh ta trở về hoặc cho con cái của người ủy thác khi chúng đến tuổi trưởng thành; và trong suốt thời gia quản lý bên được ủy thác phải chi trả bên ủy thác hoặc bên thụ hưởng một phần hoa lợi từ đất. Tuy nhiên trên thực tiễn, bên được ủy thác thường có xu hướng không thực hiện những điều cam kết. Đại pháp quan đã giải quyết các vụ việc này bằng việc ra phán quyết cưỡng chế thi hành những điều kiện theo đó hợp đồng ủy thác được thiết lập để buộc bên được ủy thác thực hiện cam kết của mình từ thời điểm hợp đồng được thiết lập; những phán quyết này thường kèm theo những hình phạt đối với cá nhân người được ủy thác nếu không chịu thi hành án. Dần dần các nguyên tắc giải quyết các vụ việc trên ngày càng được hoàn thiện và xây dựng lên quy phạm pháp luật chi tiết. Các quy phạm ủy thác này đã được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội; đây được coi là chế định pháp luật điển hình của dòng họ common law. Việc áp dụng chế định trust có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ lợi ích vật chất của ngươi không có năng lực pháp luật; trong các mối quan hệ trong pháp nhân, và giao dịch thương mại; trong việc giải quyết vấn đề thừa kế. IV. Kết luận. 4 Trong quá trình lĩnh vực pháp luật, cả common law và equity đều bộc lộ những khuyết điểm của mình, cùng với đó là những yếu kém trong hoạt của các tòa án đã dẫn đến cuộc cải tổ hệ thống pháp luật Anh vào cuối thế kỉ XIX. Trong đó có việc hợp nhất common law và equity, thống nhất việc áp dụng các quy phạm và các nguyên tắc pháp lý của Anh quốc. Mặc dù common law và equity có nhiều thay đổi theo thời gian, nhưng chúng vẫn được xem là cơ sở tạo nên những đặc điểm cơ bản khác biệt của hệ thống pháp luật Anh so với các hệ thống pháp luật khác. 5 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật so sánh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008. 2. Michael Bogdan, Luật so sánh (bản tiếng Việt), Nxb. Kluwer, Norstedts Juridik, Tano, 2002. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng luật so sánh, 2003. 4. Võ Khánh Vinh, Giáo trình luật học so sánh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002. 6 Nội dung So sánh equity law và common lawTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu So sánh equity law và common law để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang. Xem preview So sánh equity law và common lawNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Hạn chế của common law và sự thay thế của equity
Từ thế kỉ XV, Common Law đã bộc lộ nhiều yếu kém, không đảm đương được sứ Tải về bản full Sự hạn chế của Common Law và sự thay thế của EquityTừ thế kỉ XV, Common LawTừ thế kỉ XV, Common Law đã bộc lộ nhiều yếu kém, không đảm đương được sứ mệnh của mình, vì vậy mà đã có nguy cơ và đã bị thay thế bởi Equity. I. Những bất cập của Common Law trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án Hoàng gia. 1. Sự cứng nhắc của Common Law. » Xem thêm Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Common Law đã giải quyết rất tốt nhiệm vụ của mình, là một luật rất mềm dẻo. Vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải quyết... » Thu gọn Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Mục lục
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Lịch sử hình thànhSửa đổiHạn chế của Thông luậtSửa đổiGiai đoạn thế kỷ XVI và XVII ở Anh, lúc này tình hình kinh tế xã hội phát triển, tự do kinh tế, tự do mậu dịch được phát triển, nhiều tranh chấp mới phát sinh giữa các thương nhân nhưng các Tòa án hoàng gia không thể giải quyết thấu đáo các tranh chấp này, mặt khác các quy định của thông luật không phù hợp để điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh dẫn đến thông luật rơi vào tình trạng khủng hoảng. Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Thông luật đã phát huy tác dụng, là một luật rất mềm dẻo vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề, vụ việc đưa đến tòa dựa trên các nguyên tắc chung đã được thỏa thuận giữa các thẩm phán. Bài chi tiết: Tiền lệ pháp Đến cuối thế kỉ XIV, học thuyết tiền lệ pháp được tuân thủ và áp dụng trong các Tòa án Hoàng gia của Anh. Học thuyết tiền lệ pháp là học thuyết mà theo đó các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc tại thời điểm hiện tại, phải căn cứ những phán quyết, những quy định trong quá khứ, trong đó có án lệ. Trong hệ thống pháp luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ XIII có tên Latinh là "stare decisis" (Tiền lệ phải được tôn trọng) có nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,các Tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ. Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ pháp làm cho Thông luật (Common Law) trở lên cứng nhắc, bởi vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển các quy phạm pháp luật giải quyết những vấn đề đem đến tòa nữa. Khi tình tiết vụ việc khác đi thì các thẩm phán không thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng họ cũng không có khả năng sáng tạo ra tiền lệ pháp mới vì bị bó buộc trong khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp. Hệ thống TrátSửa đổiBài chi tiết: Trát Về mặt thủ tục, bản thân Thông luật được xây dựng trên thủ tục tố tụng khá phức tạp, đặc biệt trong mối quan hệ với hệ thống trát. Trát được sử dụng như một loại giấy thông hành do vua cấp để bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa án Hoàng gia, tiếp cận với công lý nhằm giải quyết những oan khuất của mình. Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng, vì vậy, tùy thuộc vào bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần giành được loại trát phù hợp mới hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lý và giải quyết. Bước sang thế kỉ XV, thủ tục tố tụng ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát, do đó, thủ tục tố tụng thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện. Nếu đơn khiếu kiện không rơi vào một trong những vụ việc đã có trát lưu hành, bên nguyên sẽ mất quyền khởi kiện, hoặc nếu bên nguyên giành được trát nhưng trát đó không phù hợp với bản chất của vụ kiện, bên nguyên cũng bị tòa bác đơn. Hình thànhSửa đổiDo sự cứng nhắc của Thông luật, đặc biệt trong thủ tục xét xử, bên nguyên đơn trong vụ việc tranh chấp thường tiếp tục khiếu kiện lên vua nhằm tìm khiến sự trợ giúp đặc biệt mang tính chất phúc thẩm. Nhiều người khởi kiện không thỏa mãn với phán quyết của các Tòa án hoàng gia mà làm đơn thỉnh cầu lên nhà vua. Họ coi nhà vua là người có quyền lực tối cao và là biểu tượng của Công lý, lẽ công bằng. Lẽ tất nhiên, nhà vua không thể tự mình giải quyết, phân xử hết tất cả những thỉnh cầu của thần dân ông ta mà những thỉnh cầu này gửi lên càng ngày càng nhiều, tranh chấp càng ngày càng đa dạng, phức tạp, chưa kể là có những đơn thỉnh cầu, những tranh chấp vặt vãnh. Vua thường thông qua viên Đại Chưởng ấn hay còn gọi là Đại Pháp quan hoặc Ngài Đổng lý Văn phòng (Lord Chancellor) là một công chức của Tòa án đồng thời hầu cận của mình đóng vai trò như một pháp quan để giải quyết những đơn kiện loại này. Dân dần nhà vua giao cho Đại chưởng ấn giải quyết luôn những vụ việc và giao quyền cho ông ta. Điều này dẫn đến hệ lụy là Văn phòng đại pháp quan đã dần phát triển thành Tòa đại pháp.[3][4] Trong quá trình giải quyết, Đại chưởng ấn đưa ra những giải pháp pháp lý rất phù hợp, hiệu quả vì thường viện dẫn vào "công lý, lẽ phải và tình yêu thương của Chúa trời" dẫn đến số lượng đơn thỉnh cầu tăng lên, khối lượng công việc ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một nhân sự và hệ thống thể chế, thiết chế tương đương vì vậy vua ra quyết định thành lập tòa án công bằng. Đầu thế kỷ 16, các quyết định của Tòa công bằng hình thành một hệ thống các quy định pháp lý và Trong quá trình sử dụng công lý để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại pháp quan đã phát triển thành tập hợp những quy phạm đặc biệt, được nhắc đến dưới danh nghĩa "equity" hay Luật Công bình và hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng. Học thuyết về Luật công bình (Equity law) mang nhiều yếu tố của Luật La Mã vì các Đại Chưởng ấn thường là các mục sư bị ảnh hưởng của Luật Giáo hội (cannon law)- một loại luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã.[3] |