Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong núi đôi

[1]Phân tích bài thơ Núi đôi của Vũ Cao. Bài thơ là nỗi xúc động chân thực của tác giả về một câu chuyện có thật ở vùng Xuân Dục trong kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tự sự đậm đà phong vị dân gian làm đẹp thêm mối tình kháng chiến, đồng thời tạo xúc động trước sự hy sinh của người con gái anh dũng. Mối tình nên thơ gắn với hoài niệm về thời đẹp nhất của tuổi thanh xuân: Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng Tác giả dẫn dắt vào không gian trong veo hương đồng nội, với những địa danh thân thương gắn kết đôi bạn trẻ: Xuân Dục, Đoài Đông, Núi Đôi…giản dị và tự nhiên tạo thành thương nhớ. Tình người, tình đất, tình quê lồng vào nhau: Em vẫn đùa anh sao khéo thế Núi chồng núi vợ đứng song đôi Câu chuyện tình hết sức riêng tư, chân thật đã được gắn vào với hoàn cảnh quê hương ngày giặc chiếm đã đan cài vào đó bao tâm trạng uất nghẹn căm hờn và lo lắng bồn chồn của người dân núi Đôi. Cảm xúc này từng được diễn tả trong bài Đất Nước [1955] của Nguyễn Đình Thi: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, ta thêm hiểu vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn. Lời dẫn chuyện của Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục. Bao tâm trạng được diễn tả: khắc khoải ngóng đợi, “trăm nghìn căm uất”, náo nức ngày trở lại. Tự thân những lời thơ đã làm đẹp thêm bao nhiêu bóng hình người yêu trong tâm tưởng người chiến sĩ: Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm. [2] Em vẫn đi về những bến sông? Chính vì vậy mà nỗi đau xót sẽ làm người đọc càng day dứt, như một sự tích tụ để vỡ oà trước sự mất mát. Hơn bao giờ hết, người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù một cách cụ thể đến từng số phận: bắt đầu từ sự xuất hiện của chúng là một dự cảm mơ hồ, tiếc nuối: Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó mất tin nhau để rồi trở thành sự ngóng đợi thắc thỏm: sương trắng người đi lại nhớ người. Mong đợi cháy bỏng đến khi thành hiện thực thì lại phải đối mặt với nỗi đau lớn nhất “giặc giết em rồi, dưới gốc thông”. Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động: A nh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! Hình ảnh kỷ niệm yêu thương đã vụt biến thành chứng tích đau thương, nỗi đau rất thật ấy không của riêng ai bởi không chỉ là sự mất mát của anh mà là của cả quê hương, bởi “em sống trung thành, chết thủy chung”. Đó không hề là cảm giác bi lụy mà mang tính chất bi kịch, giúp người đọc ý thức được giá trị của chiến thắng. Nỗi đau càng lớn hơn khi được kể lại, nhưng sự vô tình ấy lại làm ta nhận rõ về người liệt sĩ - người yêu của anh chiến sĩ: Mấy năm cô ấy vào du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng? Mỗi lời kể như dao cứa vào tim, nhưng lạ thay lại làm ta thêm yêu mến, trân trọng người con gái sắt son anh dũng. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương. Hình tượng người con gái Núi Đôi còn để lại suy ngẫm sâu sắc về sự hy sinh. Đó không phải là mất mát bình thường mà có khả năng biến đau thương thành sức mạnh. Bóng hình người con gái hoà vào bóng hình quê hương, thúc giục tâm tư của người còn sống, thành ý chi và quyết tâm vượt lên bất hạnh, hồi sinh sự sống. Với ý nghĩa đó, cô gái núi Đôi đã thành biểu tượng bất tử: Cha mẹ dìu nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm Sương nắng khuây dần chuyện xót đau Tình yêu bị kẻ thù hủy hoại nhưng không hề suy xuyển, mà hoà thành tình yêu lớn lao với quê hương, xóm làng, cha mẹ…Quê hương hồi sinh, đau xót nguôi ngoai nhưng không. [3] đem đến với con người sự quên lãng mà đã nhân lên thành tình cảm cách mạng, thành lời thề thiêng liêng trước Núi Đôi: Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ Oán thù còn đó, anh còn đây Và: Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng Nhân vật trữ tình trong bài thơ đã hoá thân vào “vạn tấm lòng”, tình cảm nâng tầm thành tình cảm cách mạng. Tác giả không hề mô tả nước mắt trước bi kịch mà hình dung ra cuộc chiến đấu của người chiến sĩ lấp lánh ánh sáng bất tử của người con gái núi Đôi – sao trên mũ là sao sáng dẫn đường, em là hoa trên đỉnh núi thơm mãi bốn mùa. Làn hương ấy, vẻ đẹp ấy còn kết đọng mãi trong lòng người, nhắc mãi vẻ đẹp kết tinh từ những ngày chống thực dân Pháp hào hùng để làm nên sức mạnh chiến đấu chống đế quốc Mỹ, hướng về tương lai toàn thắng của quê hương./.. ------------------------------------------------------------------------------------. Núi Đôi là một hai ngọn núi nhỏ nằm ở xã Phù Linh thuộc huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội. Từ một địa danh không mấy người biết tới, núi Đôi đã trở thành một hình tượng không thể mờ phai trong trái tim người Việt Nam qua bài thơ bất hủ của nhà thơ Vũ Cao: Núi Đôi. Ra đời khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc, bài thơ kể về một chuyện tình bi tráng dựa trên một câu chuyện có thật xảy ra tại làng Xuân Dục, xã Phù Linh mà nhà thơ được nghe kể lại. Đó là một câu chuyện tình trong chiến tranh giữa một anh bộ đội và một cô thôn nữ, sau này trở thành du kích và hi sinh anh dũng trong một cuộc chạm trán với địch... Ngày nay, núi Đôi là một cảnh quan đẹp của huyện Sóc Sơn. Núi được bao phủ bởi cánh rừng thông xanh rì đầy thơ mộng. Trên núi vẫn còn hệ thống lô cốt kiên cố được xây từ thời Pháp, chứng tích về một thời kỳ đau thương mà anh hùng. Một số hình ảnh về Núi Đôi, Đất Việt ghi nhận.. [4] Núi Đôi là hai ngọn núi thấp đứng kề nhau, một ngọn gọi là núi Đoài, ngọn kia là núi Đông. .. Cả hai ngọnnúi được bao phủ bởi rừng thông xanh rì.. [5] Núi Đôi từng là cứ điểm phòng thủ quan trọng của thực dân Pháp ở ngoại thành Hà Nội. Nhìn lên đỉnh núi có thể thấy những lô cốt Pháp đứng sừng sững.. [6] Trên đỉnh núi Đoài có 4 lô cốt, gồm 1 lô cốt chỉ huy ở giữa và 3 lô cốt bảo vệ phía ngoài. Trong bài thơ Núi Đôi, hệ thống lô cốt này được nhắc tới qua câu thơ "Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm". .. Nếu như đỉnh núi Đoài - là trung tâm chỉ huy, có đến 4 lô cốt thì trên đỉnh núi Đông chỉ có một. .. [7] Các lô cốt không chỉ được xây trên đỉnh núi mà còn xuất hiện rải rác quanh sườn núi và sát chân núi. .. Trong thời kỳ 9 năm chống Pháp [1945-1954], tại "vành đai trắng" Phù Lỗ - Núi Đôi đã diễn ra những trận đánh công đồn ác liệt.. [8] .. Khi ấy, những lỗ châu mai như thế này là "ô cửa chết chóc", với những họng súng thường trực, luôn sẵn sàng nhả đạn. .. Trong lòng lô cốt là những toán lính thực dân cao lớn, ngày đêm lo âu thấp thỏm trước tinh thần chiến đấu quả cảm của bộ đội giải phóng.. [9] .. Giờ đây chúng chỉ còn là những phế tích bị lãng quên... .. [10] ...nằm im lìm giữa màu xanh bình yên của cây cỏ. .. [11] Từ đỉnh núi, có thể nhìn thấy thị trấn Sóc Sơn ở phía xa. .. [12] . Dưới chân núi, những cánh đồng lúa của xã Phù Linh trải dài ngút ngát tầm mắt. "Anh nghe có tiếng người qua chợ Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu". [Một khổ trong bài thơ Núi Đôi - Vũ Cao].. [13]

chỉ mới nghe đến cái tên thôi cũng đã đủ làm cho ta cảm nhận được sự gắn kết, yêu thương rồi nhỉ. Bài thơ Núi đôi của nhà thơ Vũ Cao là nỗi xúc động của nhà thơ về một câu chuyện tình có thật Xuân Dục – Đoài Đông. Với giọng thơ mang đậm phong cách dân gian càng làm thêm cho mối tình kháng chiến thêm đậm đà hơn và tạo nên sự xúc động trước sự hy sinh anh dũng của cô gái.

Câu chuyện tình yêu trong bài thơ mang màu sắc dân gian, đó là câu chuyện tình yêu đôi lứa của hai người yêu nhau. ình yêu của họ gắn với tình yêu đất nước, quê hương.

Bảy năm về trước, em mười bảy Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa

Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế

Núi chồng núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn

Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.

Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình năm lại năm Mấy bận dân công về lại hỏi

Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?

Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi Mỗi tin súng nổ vành đai địch

Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở Trung du làng nước vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm

Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện

Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.

Mới tới đầu ao, tin sét đánh Giặt giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa

Em sống trung thành, chết thuỷ chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông bờ có con đường quen. Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo: Em còn trẻ lắm, nhất làng trong; Mấy năm cô ấy làm du kích

Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, dường nghẽn lối Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao, nhà đổ chái

Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ đưa nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm

Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ: Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc

Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ. Oán thù còn đó, anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục

Đã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi em: đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

1956

I. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Núi Đôi

Nhà thơ Vũ Cao là một nhà thơ dù tên tuổi của ông không được nhiều người biết đến, nhưng với tác phẩm Núi Đôi độc giả yêu thích phong cách thơ ông bởi lối thơ nhẹ nhàng, trữ tình đậm chất dân gian.

Bài Nhiều Lượt Xem  Nhà Thơ Vũ Quần Phương Cùng Tập Thơ Chỗ Ấy Sóng Phần 1

Bài thơ Núi Đôi được Vũ Cao sáng tác dựa trên một câu chuyên có thật. Người con gái trong bài thơ là Trần Thị Bắc một nữ du kích Việt Minh quê ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài – Đoài Đông xã Phù Linh [Còn gọi là Lạc Long], huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Trần Thị Bắc mất ngày 21/3/1954 khi rơi vào ổ phục kích của đối phương.

II. Bình giảng bài thơ Núi Đôi

Bài thơ Núi Đôi là sự diễn tả câu chuyện tình yêu xúc động trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Câu chuyện trong thơ mang màu sắc dân gian. Hai người yêu nhau. Tình yêu của họ gắn với tình yêu đất nước, quê hương.

Mở đầu bài thơ là sự hoài niệm về một thời đẹp nhất của tuổi trẻ, tuổi thanh xuân:

Bảy năm về trước em mười bảy

Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng

Xuân Dục – Đoài Đông hai cánh lúa

Bữa thì em tới bữa anh sang”

Hai câu thơ mở đầu là sự dẫn dắt vào một không gian trong veo với hình tượng “Anh” và “Em”. Những vần thơ tự nhiên, giản dị, Tình yêu của họ không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng nó gắn bó với cánh đồng, với đồi núi của làng quê Xuân Dục – Đoài Đông.

“Lối ta đi giữa hai sườn núi

Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi

Em vẫn đùa anh sao khéo thế

Núi Chồng, núi Vợ đứng song đôi”

Sự miêu tả câu chuyện tình yêu hết sức riêng tư, chân thật gắn liền với hoàn cảnh quê hương đất nước. Hình ảnh “núi chồng” và “núi vợ” là hình tượng tạo nên ngọn ” Núi đôi” tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự đau xót lắng động.
Núi đôi không phải chỉ có những lời ca ngợi tình yêu, ca ngợi những kỉ niệm êm đềm nơi đồng quê Xuân Dục, Đoài Đông mà còn là hình ảnh đau thương của quê hương “ Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau” . Và ngày ngừng bắn khi hành quân qua huyện, anh ghé “ thăm nhà, thăm núi đôi” nhưng :

“ Mới đến đầu ao tin sét đánh

Giặc giết em rồi dưới gốc thông”

Quân giặc đến, giết chết cả người yêu, giết chế cả tuổi trẻ, ước mơ và hạnh phúc lứa đôi. Nỗi đau đớn, bàng hoàng ấy khiến ai cũng cảm thấy rưng rưng nước mắt. Nỗi đau ấy đến vào lúc anh đang hi vọng nhất.

“ Không tin được dù đó là sự thật.

Giặc giết em rồi quăng mất xác

Chỉ vì em là du kích em ơi

Đau xé lòng anh chết nửa con người”

Cụm từ “tin sét đánh” thể hiện sự bàng hoàng, của người Anh, người chiến sĩ khi nghe tin người yêu mất. Nhưng hình tượng người chiến sữ trong Núi Đôi không dù đau đớn đến tột cùng nhưng không gục ngã, vẫn luôn cảm thấy tự hào:

“ Em sống trung thành, chết thuỷ chung”

Dù cuộc đời em trải qua thời gian ngắn ngủi, nhưng vô cùng đẹp đẽ và cao cả để lại trong Anh nỗi nghẹn ngào và kính phục.

“Anh ngước nhìn lên hai dốc núi

Hàng thông, bờ cỏ con đường quen

Nắng bụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em”

Những kỉ niệm về người yêu lại ùa về, những hình ảnh gắn với câu chuyện tình của em và anh thật chân thật và mộc mạc. Đó là “dốc núi”, hàng thông, bờ cỏ..nay chỉ còn “anh ngước nhìn”. Câu thơ :
“ Núi vẫn đôi mà anh mất em”

Trong tâm trí của những người yêu nhay hình ảnh núi đôi là hình ảnh cặp đôi sẽ luôn gắn kết với nhau. Nhưng với anh “núi vẫn đôi” mà “anh mất em” ngọn núi đôi vẫn đứng đó, chỉ có anh là mất đi người yêu. Nỗi mất mát, chua xót thật không gì diễn tả được.

Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, giúp ta phần nào hiểu được vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn.

Lời dẫn chuyện của nhà thơ Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục.

Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Nỗi đau xót sẽ làm cho người đọc, càng day dứt, mọt sự tích tụ vỡ ào trước sự mất mát. Từ đó người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù. Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau

Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động:

A nh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Hình ảnh kỉ niệm yêu thương, đã vụt biến thành chứng tích tụ đau thương, nỗi đau ấy rất thật, là nỗi đau mất mát không chỉ riêng anh mà là của cả quê hương, của cả đất nước.

Mỗi một lời kể càng làm cho nỗi đau, nỗi mất mát ấy càng lớn:

Mấy năm cô ấy vào du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Mỗi lời kể càng làm thêm đau đớn và càng làm cho ta thêm kính trọng, tự hòa về hình ảnh của một người con gái, một người chiến sĩ dũng cảm. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương.

Nhân vật cô gái trong bài thơ Núi Đôi đã hóa thân thành một hình tượng , người chiến sĩ cách mạn. Cả bài thơ là sự mất mát, đau thương nhưng không hề mô tả một giọt nước mắt nào, từ đó hình dung được sức mạnh phi thường của người lính, người chiến sĩ bất tử.

[related_posts_by_tax posts_per_page="5"]

Video liên quan

Chủ Đề