Thành tựu ứng dụng công nghệ tế bào phổ biến nhất là

Những năm gần đây, công nghệ tế bào gốc đã mang đến nhiều bước tiến mới trong lĩnh vực y khoa. Đặc biệt, những phương pháp chữa bệnh mới được tìm thấy và đạt được hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều chưa nhận thức rõ rệt những hoạt động ứng dụng của tế bào gốc nên vẫn còn tồn tại một số luồng ý kiến trái chiều.

1. Tế bào gốc là gì?

Trong y khoa, tế bào gốc được xem như là “nguồn nguyên liệu ban đầu” để sản sinh ra nhiều loại tế bào khác nhằm thực hiện những chức năng hỗ trợ cho cơ thể. Nói cách khác, đó chính là loại tế bào có khả năng đặc biệt trong việc sản xuất và phát triển nhiều loại tế bào chuyên biệt khác. Thông thường, cơ thể con người là một khối được cấu tạo từ nhiều loại tế bào khác nhau. Điển hình như các tế bào hồng cầu có nhiệm vụ đưa những nguyên tố oxy lan truyền khắp nơi trong cơ thể để nuôi sống các bộ phận.

Giải đáp thắc mắc: Tế bào gốc là gì?

Khi được đặt trong một môi trường lý tưởng, như phòng thí nghiệm hoặc cơ thể, tế bào gốc sẽ tự động phân chia thành nhiều tế bào mới, hay còn gọi là tế bào con. Trong tế bào con lại tiếp tục phân chia thành tế bào biệt hóa hoặc tế bào gốc thể mới với những nhiệm vụ cụ thể. Ví dụ như tế bào não, tế bào xương, tế bào máu hoặc tế bào cơ tim. Đặc biệt, tế bào gốc là loại tế bào duy nhất có khả năng tái tạo và sản sinh tế bào mới cho cơ thể. Do đó, công nghệ tế bào gốc đã mang đến nhiều tiềm năng mới cho lĩnh vực y học.

2. Nguồn gốc phát triển công nghệ tế bào gốc?

Theo các nhà nghiên cứu, tế bào gốc được tìm thấy từ nhiều nguồn khác nhau trong cơ thể. Bên cạnh đó, để phát triển công nghệ tế bào gốc, người ta cần phải phân biệt tế bào thành nhiều nhóm. Cụ thể như:

2.1. Embryonic Stem Cell

Embryonic Stem Cell hay còn gọi là tế bào gốc phôi và trong nghiên cứu ứng dụng của tế bào gốc, phôi được lựa chọn từ trứng và đem đi thụ tinh. Tuy nhiên, sự thụ tinh của phôi không diễn ra trong tử cung mà là trong ống nghiệm. Bên cạnh đó, những tế bào gốc này được lấy từ cơ thể của những người hiến tặng sau khi có sự đồng ý của họ. Vậy làm thế nào để duy trì sự sống của những tế bào này? Theo các nhà nghiên cứu cho biết, chúng hoàn toàn có thể tồn tại trong môi trường đĩa Petri của phòng thí nghiệm hoặc ống nghiệm.

Tế bào gốc trưởng thành tồn tại trong tủy xương

2.2. Adult Stem Cell

Adult Stem Cell hay còn gọi là tế bào gốc trưởng thành và rất khó tìm thấy từ các mô của chất béo hoặc tủy xương. Bên cạnh đó, khả năng sản sinh tế bào con của dạng tế bào gốc này cũng khá hạn chế. Một vài kết quả nghiên cứu đã cho thấy, dạng tế bào gốc trưởng thành chỉ sản xuất được những tế bào con cùng loại. Ví dụ như tế bào gốc khu trú ở tủy xương thì chỉ có khả năng tạo ra tế bào máu.

2.3. Fetal Stem Cell

Fetal Stem Cell hay còn gọi là tế bào gốc thai, được tìm thấy từ nước ối và máu cuống rốn của phụ nữ mang thai. Đặc biệt, những tế bào chuyên biệt có thể hình thành và phát triển dựa trên sự biến đổi của tế bào gốc thai. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, loại tế bào này vẫn chưa được tìm hiểu sâu về khả năng phát triển.

3. Công nghệ tế bào gốc trong nghiên cứu y khoa

Nhờ những phát hiện tiến bộ từ công nghệ tế bào gốc mà nhiều phương pháp điều trị được ứng dụng cho bệnh nhân và mang lại nhiều kết quả đáng mừng. Ngoài ra, trong tương lai, các bác sĩ và nghiên cứu sinh còn mong muốn tế bào gốc có thể ứng dụng trong:

  • Phân tích cơ chế bệnh lý: dựa trên những tế bào được tìm thấy trong xương, dây thần kinh, cơ tim,... dưới sự sản sinh của tế bào gốc trưởng thành, bác sĩ có thể xác định được tình trạng và những chuyển biến của bệnh.

  • Tái sinh tế bào mới để thay thế những tế bào bệnh lý: một số loại tế bào như tế bào máu, tế bào cơ tim, tế bào thần kinh hoàn toàn có thể được sản sinh nhờ tế bào gốc. Do đó, việc sản sinh tế bào khỏe mạnh để chuyển đổi với tế bào bị bệnh vẫn có khả năng rất cao. Trong đó, những đối tượng có thể áp dụng liệu pháp này là bệnh nhân bị tiểu đường tuýp 1, bị bệnh Alzheimer, bị chấn thương vùng cột sống, bị bệnh Parkinson, bệnh tim, bị đột quỵ, viêm xương khớp,...

Sản sinh tế bào mới để thay thế tế bào bị bệnh

  • Tầm soát mức độ an toàn của thuốc mới: để kiểm soát những phản ứng phụ hoặc thành phần của thuốc có thể gây kích ứng, bác sĩ sẽ thử nghiệm thuốc lên tế bào gốc của người bệnh. Hình thức xét nghiệm này không chỉ xác định được mức độ hiệu quả của thuốc mà còn tìm thấy những nguy cơ bị tổn tại cho bệnh nhân thông qua phản ứng của tế bào. Nhờ đó, bệnh nhân hoàn toàn có thể yên tâm khi đổi thuốc trong quá trình điều trị, nhất là những bệnh lý liên quan đến thần kinh.

4. Ứng dụng của tế bào gốc trong điều trị bệnh

Với sự phát triển của công nghệ tế bào gốc, nhiều bệnh lý đã được điều trị hiệu quả với những ứng dụng ban đầu. Tuy nhiên, không phải căn bệnh nào cũng có thể lựa chọn phương pháp này. Sau đây là một số bệnh lý thường được điều trị thông qua ứng dụng của tế bào gốc:

  • Bệnh về tim mạch: nhờ khả năng tái tạo, tế bào gốc sẽ sản sinh ra nhiều tế bào mới và làm cơ sở để các mạch máu hình thành. Dựa trên một số nghiên cứu của nước ngoài cho thấy, những mạch máu mới có khả năng hoạt động cao hơn cả mạch máu tự nhiên. Do đó, công nghệ sử dụng tế bào gốc được đánh giá rất cao trong việc điều trị cho người bệnh tim.

Ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh tim

  • Bệnh về não: điển hình như bệnh Parkinson phát sinh do tế bào não bị tổn thương khiến cho việc cử động của cơ bắp bị mất kiểm soát. Do đó, bác sĩ có thể vận dụng công nghệ tế bào gốc để bổ sung vào phần mô của não đã bị ảnh hưởng từ bệnh lý này. Từ đó, các tế bào chuyên biệt của não sẽ được phục hồi và khắc phục tình trạng của bệnh nhân.

  • Thiếu tế bào: sử dụng tế bào gốc để tái tạo tế bào mới và sản sinh những mô khỏe mạnh để phục hồi chức năng của tim. Điển hình như những bệnh nhân bị tiểu đường tuýp 1 sẽ được bác sĩ cấy ghép tế bào tuyến tụy nhằm tạo điều kiện sản sinh Insulin. Trong đó, Insulin có nhiệm vụ phục hồi và tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể.

  • Bệnh về máu: ứng dụng của tế bào gốc có thể được lựa chọn làm phương pháp chữa trị cho những đối tượng mắc bệnh về máu. Điển hình như thiếu máu hồng cầu, bệnh bạch cầu hay kể cả những bệnh lý liên quan đến sự suy giảm miễn dịch.

  • Thu hoạch tế bào gốc hoặc hiến tặng: tế bào gốc có thể được lưu trữ để sử dụng trong tương lai cho chính bản thân hay kể cả những người thân khi cần. Thông thường, nguồn gốc tế bào được thu hoạch hoặc hiến tặng sẽ lấy từ tế bào gốc ngoại vi, máu cuống rốn hoặc tủy xương.

Sử dụng tế bào gốc để chế tạo loại thuốc mới

  • Nghiên cứu trong lĩnh vực y học: dựa vào tế bào gốc, bác sĩ có thể phân tích được sự chuyên biệt của tế bào trong cơ thể bệnh nhân. Từ đó, phát hiện ra những khuyết tật bẩm sinh hoặc nguyên nhân gây ra bệnh lý để đưa ra tiến trình điều trị phù hợp. Bên cạnh đó, tế bào gốc còn là cơ sở để chế tạo và phát triển nhiều loại thuốc mới.

Công nghệ tế bào gốc được đánh giá là một bước chuyển đột phá trong lĩnh vực y học. Do đó, mọi người có thể tin tưởng vào những kĩ thuật, liệu pháp mà bác sĩ đưa ra. Trong tương lai, nhiều bệnh lý sẽ được tầm soát và can thiệp hiệu quả nhờ phương pháp điều trị dựa trên ứng dụng của tế bào gốc.

Với nguồn đầu tư hạn chế, trong 10 năm qua, việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tế bào gốc ở Việt Nam đã có những thành tựu bước đầu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, lĩnh vực này cần có một chiến lược tổng thể dài hạn mang tầm quốc gia để có thể hòa nhập và bắt nhịp trình độ khu vực, thế giới.

Lưu trữ tế bào gốc tại Viện Huyết học - Truyền máu trung ương.
Ảnh: Vương Tuấn

Chữa nhiều bệnh hiểm nghèo

Việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tế bào gốc tại Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1995, tăng dần trong những năm gần đây và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Hiện nay cả nước có gần 60 đơn vị nghiên cứu và ứng dụng công nghệ này, trong đó có khoảng 50 đơn vị ứng dụng các sản phẩm từ tế bào gốc trong lĩnh vực thẩm mỹ.

Các cơ sở triển khai nghiên cứu tế bào gốc có thể kể đến là Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Quân y, Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam. Nhiều cơ sở y tế đã quan tâm và mạnh dạn ứng dụng công nghệ tế bào gốc, trong đó có Viện Huyết học - Truyền máu trung ương, Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec, Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh…

Phó Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Trung Nam cho biết: Việc nghiên cứu tế bào gốc được viện chú trọng từ hơn 10 năm qua và đã có nhiều đề tài ở lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Gần đây viện chú trọng hơn đến những nghiên cứu mang tính ứng dụng của tế bào gốc liên quan đến điều trị một số bệnh về máu, xương, khớp và các bệnh liên quan đến ung thư.

Đề tài “Nghiên cứu biệt hóa tế bào chức năng gan từ tế bào gốc người và chuột” do Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh, Viện Công nghệ sinh học, thực hiện cùng các cộng sự. Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam sử dụng kỹ thuật khảo sát sự di trú và định hình tế bào sau quá trình ghép vào cơ thể trong điều kiện phòng thí nghiệm. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh chia sẻ, mục tiêu của đề tài là tạo tế bào chức năng gan, hướng tới ứng dụng trên người.

Viện Công nghệ sinh học còn triển khai đề tài “Tái tạo tế bào thần kinh từ tế bào máu ngoại vi của bệnh nhân Alzeimer” do Tiến sĩ Lê Thị Thùy Dương làm chủ nhiệm. Nghiên cứu của đề tài nhằm tạo ra các tế bào thần kinh trực tiếp từ các tế bào trưởng thành của người bệnh, từ đó nghiên cứu cơ chế cũng như nguyên nhân gây ra bệnh Alzeimer.

Các bệnh về máu là lĩnh vực mà công nghệ tế bào gốc được ứng dụng để điều trị nhiều nhất. Viện Huyết học - Truyền máu trung ương là một trong những đơn vị triển khai phương pháp ghép tế bào gốc tạo máu từ hơn 10 năm nay. Đến nay, viện đã ghép cho 360 ca bệnh, trong đó có 28 ca được ghép từ nguồn máu dây rốn cộng đồng. Nhiều bệnh nhân mắc bệnh về máu sau khi được tiếp cận phương pháp ghép tế bào gốc đã có cuộc sống khỏe mạnh bình thường.

Bác sĩ Võ Thị Thanh Bình, Trưởng khoa ghép tế bào gốc, cho biết: Với nhiều ưu điểm, hiện phương pháp ghép tế bào gốc tạo máu nói riêng và ghép tế bào gốc nói chung đã và đang được rất nhiều bệnh nhân tại viện lựa chọn để điều trị, tùy theo từng loại bệnh mắc phải.

Ngoài hoạt động ghép tế bào gốc thì việc tiếp nhận, lưu trữ mẫu tế bào gốc máu dây rốn cộng đồng cũng đạt được những kết quả nhất định. Từ năm 2010, Viện Huyết học - Truyền máu trung ương đã đưa vào hoạt động ngân hàng tế bào gốc.

Cần chính sách về tế bào gốc

Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Phúc, Viện trưởng Viện Tế bào gốc, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Năng lực công nghệ tế bào gốc của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình của thế giới. Một số công nghệ mới như tách chiết mô rắn, nuôi cấy bám dính 2D, biến đổi biệt hóa và bảo quản… ở mức độ tiên tiến so với các nước trong khu vực. Với kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước trong 10 năm qua là khoảng 200 tỷ đồng, đây là những thành tích đáng ghi nhận. Việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ dần được quan tâm và đầu tư nhiều hơn bởi các doanh nghiệp tư nhân.

Theo ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, mặc dù là một lĩnh vực tiềm năng nhưng việc ứng dụng công nghệ tế bào gốc ở Việt Nam còn hạn chế, do đầu tư còn thấp. Do vậy, cần có một chiến lược tổng thể dài hạn mang tầm quốc gia để đưa lĩnh vực này hòa nhập và dần bắt nhịp với trình độ khu vực và thế giới. Hiện Việt Nam vẫn chưa có các chính sách về tế bào gốc. Mặc dù đã được dự thảo từ năm 2015 nhưng đến nay, sau gần 4 năm, luật về máu và tế bào gốc vẫn chưa được ban hành.

Hiện cũng chưa có thêm các hướng dẫn về việc triển khai nghiên cứu, khai thác, ứng dụng hay các hoạch định chiến lược cho lĩnh vực nghiên cứu này. Các đề tài, dự án về tế bào gốc chưa được định hướng và quy hoạch một cách rõ ràng. Trong khi đó, các dự án đầu tư về sản xuất và ứng dụng tế bào gốc trong y học vẫn đang được các đơn vị mà chủ yếu là tư nhân thực hiện tự phát. Đó cũng là lý do khiến cho việc khởi động một nền công nghiệp đầy tiềm năng nhưng đến nay vẫn đang manh mún và chưa đem lại những đóng góp xứng đáng.

Ông Tạ Việt Dũng cho rằng: "Phải xây dựng hệ thống bản đồ công nghệ trong lĩnh vực tế bào gốc để có một bức tranh tổng thể, cho thấy chúng ta đang sở hữu các công nghệ này như thế nào và ai đang sở hữu. Từ đó, chúng ta xác định lộ trình để đổi mới công nghệ, trong đó có những công nghệ có thể phát triển được bằng nội lực, dựa trên năng lực nghiên cứu trong nước. Với những công nghệ đó, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ có định hướng tăng cường đầu tư".

Theo Báo Hànộimới 

Video liên quan

Chủ Đề