Thầy bạch vân là ai
Sau khi dự Lễ tưởng niệm Chưởng môn Lê Sáng lần thứ 4, hôm sau (14-9-2014), tôi và con gái Nguyễn Kim Thanh cùng các đồng môn Mã Thị Ngọc Liêng, Nguyễn Thị Phụng (Kiên Giang), Thiều Thị Tân, Diệp Thanh Long, Phạm Ngọc Thành, Cao Văn Nam. Nguyễn Tiến Khoa và vợ chồng cô Nguyễn Ngọc Phước (TPHCM)… đã từ TPHCM ra huyện Tân Thành (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) thăm khu đất ở Núi Dinh – nơi Chưởng môn Lê Sáng đã mua và dự định xây dựng Tổ đình với diện tích đất khoảng 6.000m vuông… Trước đây, khi thầy Chưởng môn còn tại thế, một số võ sư nhiều lần rủ tôi cùng đi, nhưng lần lữa tôi đều không đi được. Chẳng hiểu sao, sau Lễ tưởng niệm Thầy lần thứ 4, lòng tôi lại thấy nao nao và quyết định ra nơi đó. Cái “duyên” ấy đã đến với tôi như từ sự dẫn dắt của Thầy. Show Thật lòng, đến nơi rồi mới thấy được tầm nhìn xa trông rộng của Thầy chúng ta. Phong cảnh Núi Dinh thật hữu tình, mảng xanh trải rộng từ ngoài vào trong sân tập lên đến tận đỉnh Bao Quang. Nơi đây đúng là lá phổi xanh của huyện Tân Thắng, bao quanh khu đất có khá nhiều ngôi chùa, đặc biệt Khu du lịch Tâm Linh với dòng suối mát trong xanh chảy quanh đang được hình thành, bên cạnh là ngôi chùa Thái do chính Công chúa người Thái Lan đề nghị xây dựng, uy nghi, trang nghiêm, tuyệt đẹp với bàn tay sáng tạo của con người hòa quyện với núi rừng thiên nhiên. Dừng chân nơi phòng tập vừa mới tu bổ lại – chắc chắn và khang trang – với bảng tên “CLB VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO NÚI DINH”, chúng tôi cảm thấy thật ngon miệng với tô mì gói vẫn còn bốc khói từ tay vợ chồng cháu Trần Ngọc Tùng – con võ sư Trần Ngọc Trình… Theo con đường mòn, chúng tôi lại tiếp tục khám phá núi rừng thiên nhiên. Qua chiếc cầu nhỏ, nhìn dòng suối thuộc Khu du lịch Tâm Linh nối liền hướng theo mũi tên vẽ chữ VOVINAM trên đá mà lên núi để đến tận cùng mảnh đất đã in dấu chân Chưởng môn lúc sinh tiền. Có lẽ đôi chân mạnh khỏe hơn chăng, tôi cùng con gái Kim Thanh leo lên núi trước, đến cổng chùa Bạch Vân (đang đóng cửa) trên đỉnh Bao Quang, mà người sáng lập ra ngôi chùa này cũng tên Bạch Vân. Nhìn lại, không thấy bóng mấy đồng môn; sợ lạc, tôi và con gái lại xuống thì thấy anh chị em đang ngồi nghỉ chân và trò chuyện cùng một tu sĩ trên chính mảnh đất phân định địa giới của Vovinam, mà Thầy cùng các môn đồ Vovinam khắp nơi chung góp và tạo dựng. Động viên mọi người tiếp tục hành trình, đã đi thì rán lên đến tận nơi. Lại quay lên đỉnh Bao Quang, lúc nầy chỉ còn hai cha con tôi cùng cô Liên, cô Phụng, anh Nam và em Khoa. Nghe có mấy anh em Vovinam-Việt Võ Đạo lên, thầy Bạch Vân đã tiếp đón nồng hậu và thân tình. Thầy đã kể lại những lần gặp gỡ võ sư Lê Sáng cũng như ý nguyện của Chưởng môn… Hơn nửa giờ uống trà và đàm đạo, tôi cảm nhận gần gũi và thân thiết thầy Bạch Vân hơn khi nhìn thấy trên vách treo một bức ảnh Chưởng môn Lê Sáng chụp cùng một số võ sư, mặc dù đã nhạt nhòa theo năm tháng. Thầy Bạch Vân tên thật là Tạ Tường Vân, năm nay 84 tuổi, người làng Vạn Tượng, quê ngoại ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Gia tộc nội, ngoại của thầy đều thuộc dòng dõi quí tộc, giàu có. Thầy rời xa gia đình đi học “đạo Thiền” lúc còn nhỏ, đọc nhiều, hiểu rộng, sống đạm bạc và gần gũi thiên nhiên. Cũng như Chưởng môn Lê Sáng, thầy Bạch Vân (bút hiệu Liên Khương cùng nhiều bút hiệu khác) đã viết rất nhiều sách, có thể kể vài quyển: “Tiến trình chứng nghiệm trong thực tại của người Mây Trắng”, “Cái tuyệt đối của suối nguồn chân lý, “Thơ người Mây Trắng”, “Những hạt bụi hình thành thế giới”, v.v. Vốn là một thi sĩ “tâm linh”, thầy đã sáng tác trên 1.000 bài thơ, có nhiều bài thơ siêu thoát, hư hư, thực thực, như: NGỘ ĐẠO Tôi cũng như một số đồng môn lên tận đỉnh Bao Quang gặp thầy Bạch Vân quả là một “duyên may” hay do thầy Chưởng môn của chúng ta dẫn dắt? Cá nhân tôi thì nghĩ như thế khi được thầy Bạch Vân tiếp tục dẫn lên ngôi nhà chót đỉnh để nhìn mây trời lồng lộng, ngắm nhìn non nước hữu tình, cùng nhau chụp vài bức ảnh… Bất chợt trời lại đổ mưa, chúng tôi cùng thầy Bạch Vân quay về chùa. Ngồi nghe thầy Bạch Vân đọc thơ và tâm tình rất nhiều về thầy Chưởng môn Lê Sáng qua 3 lần gặp gỡ và lần hẹn thứ 4 chưa thành, vì Chưởng môn đã vội đi xa. Thầy Bạch Vân rất quý trọng thầy Chưởng môn. Thầy đưa chúng tôi qua chính điện lễ Phật, đồng thời mong muốn có một bức ảnh thầy Chưởng môn đặt bên phải tượng Phật tổ, để ngày ngày có thể cùng nhau bầu bạn qua kinh kệ. Quả là “Tri kỷ, tri bỉ”… Ngày 22 tháng 01 năm 2015 (*) Động Phong La: nơi thầy Bạch Vân ngồi thiền suốt 10 năm. Thư thầy Bạch Vân được đánh máy lại để đọc cho dễ Kính gửi Thầy Nguyễn Chánh Tứ Thành viên Hội đồng Chưởng quản Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo. Cho đến nay tôi ở trên núi Dinh này cũng đã gần ba mươi năm 1985 -2014. Người đến núi này gần, xa đều có nhưng không nhiều, hình bóng lưu lại cũng hiếm hoi – duy có một hình người đậm nét, cứ mỗi khi nhìn đến tôi đều có cảm xúc như gặp lần đầu đó là Thầy Lê Sáng. Thầy Lê Sáng là bậc Tôn sư, là Chưởng môn Vovinam Việt Võ Đạo – Tôi thì thấy như vị THẦY ĐẠO HẠNH, tam nghiệp của Thầy thật hoàn hảo (Thân, Khẩu, Ý) Lời nói và hành động của thầy luôn như nhất nên khiến mọi người mến phục. Tôi gặp Thầy Lê Sáng khoảng năm lần – một lần ở đất bằng, hai lần trên núi và hai lần tôi viếng thăm Thầy ở đường Sư Vạn Hạnh. Tôi thấy Thầy rất gần gủi với ĐẠO nên tôi đưa Thầy mượn cuốn sách quý Bodhicaryavatara (Bồ tát hạnh của Santideva ) (Tịch Thiên – Si ba tha) Thầy mượn gần mấy tháng mới gởi lại tôi. Tôi hỏi Thầy đọc có dễ không? Thầy nói không dễ – nhưng tôi coi kỹ và Thầy nói tiếp – “ một lúc nào đó – sau này tôi cũng muốn gần thầy “ ! Tôi nói : Thầy muốn tỉnh lặng vĩnh hằng ở đỉnh núi, hay muốn nuôi dưỡng “khí thiêng của môn phái” Thầy vui vẻ nói : Cả hai. Tôi nghĩ : Bậc Tôn Sư đáng kính của Vovinam nầy muốn một tổ đình lâu dài cho môn đệ, con cháu mai hậu chăng? Vì trước đó nhiều lần Thầy Lê Sáng đã nói : “sau này họ sẽ mua đất của thầy đấy”! Gần hai năm mà nhà cất Vovinam ở chân núi không phát triển, Tôi đường đột nói với Thầy Lê Sáng : Nếu nhà đó thầy chưa cần thì tôi nói Phật tử mua lại, vì tôi cần một chỗ làm chủng ở phía dưới. Thầy bật ra như một phản ứng : Không đâu, tôi thêm chớ không bớt ! Rồi thầy nói : Vovinam đến mấy chục nước, còn cần hơn nữa…(tôi còn nhớ thầy LS nói thêm với âm thanh rất nhẹ : Tôi làm việc gì cũng phải Hòa và Thuận trước. Sau đó tôi không có cơ hội thăm thầy nữa cho đến khi thầy Lê Sáng mất. Tôi rất buồn, như không bao giờ còn gặp lại người tri âm. Một Bực Thầy Vĩ đại của làng Võ Việt Nam. Ngoài nhân cách và đạo đức, Thầy Lê Sáng còn tiềm ẩn một phẩm- thuật THIỀN – VÕ, Thiện- chân, Cao- thượng. Tôi thật không may đã không bao giờ nữa được cùng thầy uống một chung trà trên đỉnh núi Bao Quang nầy nữa! Nay nhân có mấy đệ tử Vovinam đến đây; nhìn lên hình thầy, tôi thấy xúc động viết mấy dòng nầy. Có bao nhiêu Công đức và Tuệ giác, tôi xin hồi hướng thầy: nguyện Hương linh Bardo của thầy dạo chơi ở miền Liên hoa – đài thượng và Vovinam đem hình ảnh Việt Nam cùng tiếng gọi giống nòi hùng mạnh qua Võ Thuật Việt cùng núi sông thân yêu lan tràn khắp Năm Châu Thế giới. Xin kính tặng bực Thầy Võ Đức trong làng Võ Việt Nam. Núi Dinh Hội ..(không rõ chữ) huyện Tân Thành, tỉnh bà Rịa Vũng Tàu. La1 Octobe, ngày 8/9 Giáp Ngọ 2014 (Ký tên ) Thầy Bạch Vân Trên đỉnh Bao Quang. Võ Việt Nam oai hùng sông núi Màu áo xanh trong sắc lá da vàng Hồn bất khuất Năm Châu đồng vọng mãi Nhân phẩm người Lê Sáng mãi thênh thang. B.V
Lá thư Thầy Bạch Vân gửi Krishnamurti-bậc đạo sư thế giới- khi Thầy còn trẻ Gửi: Krishnamurti – đây có phải là tên của anh? Hay chỉ là ( ) Hơn 10 năm trước, một người bạn quen với tôi GS Phạm Công Thiện, một thi sĩ ở Việt Nam đã từng gặp anh, có nói với tôi rằng: Anh chính là một thiền sư. Tôi cũng tin như thế, bởi vì Thiền sư (Bonza-monk, Buddhist prist) không phải là người dạy về thiền định (bhàvanàmaya) mà thiền sư theo chỗ biết của tôi là một tuệ giác mà cũng có thể là một toàn giác (Samma sam buddhi). Trong những bài giảng thuyết anh không khuyên ai theo đường lối tập trung thần trí (Sammatha, sammadhi). Cách thức gôm tâm duy nhất (Cittekaggata) anh cũng không đề cập đến. Như thế, những người hiểu biết có thể gọi anh là con ngươi của mắt hay dòng xuyên chảy của trực quân Vipassana. Hàng ngàn người tai mắt nhất của thế kỉ 20 trên quả địa cầu này đã bằng lòng với anh. Và có vô số triết gia thông thái đã nghe anh; họ được thiết lập tâm niệm một cách vững chắc (Satipatbana) bằng phương pháp phân tích căn cứ theo sự chú ý “attention: tất cả trở về sự thực và sáng lên trong chính quê hương của họ”. Người ta không thể có khả nghi hay ám muội gì một khi họ đã tự “Hồi quán” như thế (observation). Tôi là một trong những người ấy trước đây gần 20 năm tôi vẫn là một thi sĩ triết gia (poctc philosophe, không tự thỏa mãn với chính mình. Vì lúc ấy trong tôi đang tụ hợp) có điều kiện theo đường lối của chân lý ước định Sammuti sacca! Sau đó tôi nhờ đọc bản kinh Lankàra (lăng già) tôi mới được sự hiểu biết thông thường về cái gọi là praijnãpati. Tất cả mặc ước về (một người) con người (pudgala) đều được giải tán cho đến một tính chất của thực tại (dravya) cũng không còn cần thiết (không tồn tại). Krishnamurti! Tôi nghĩ anh có thể nghe một vài điều như vậy như những dữ kiện phổ biến cần thiết theo tính chất có thể có của con người. Nếu tất cả đều là những thông điệp sẵn sàng đủ xuyên thủng qua những thành phần riêng biệt, làm cho tất cả đều phẳng lặng: như mọi tính hòa hợp đều theo tự thể của nó. Bây giờ tôi, anh với mọi sự đều không đủ làm thành cái không ước lượng để một chân lý được hiển bày và cái phi chân đều được đồng đều trong tự vọng. Trên thế giới ngày nay, mỗi diễn biến đều nằm trong hủy diệt và mọi phát minh của nhân loại là sự phóng thể tận cùng, mọi giao ước đều tự vô tận và phản bội. Sau cùng các gập ghềnh xung động như thế, người ta mới đủ định tĩnh mà nhận định bên mình vẫn còn những kẻ uyên nguyên trác việt như những tính chất hữu tồn của chính họ. Đầu tiên là những người phi tán như chúng ta được biết về loại các chân lý cứu cánh (Paramathasacca). Điều này không còn là những chung-lý trừu tượng nữa mà là chứng nhân có thật trong vũ trụ này (Tempsduréc Espace Spatialité) và tất cả nhân quả (Samuppàda-patica) không thể là không trơn. Nhưng “kẻ đã đến” mới có đủ thẩm quyền và tự vị mở bày ra nó, ngoài ra mọi luân lý tranh biện đều là dị tướng nằm trong đặc chất của Atman mà thôi. Tôi viết bức thư này như một khai từ cho một luận án không hình sắc (từ nơi Arũpadhatu) mà tôi vừa soạn xong. Luận án này như một tuyên ngôn nguyên vị ở anh qua hình thức dàn bài: TÂM TOÀN GIÁC V của Ven Huệ Hải. Tôi như một em bé hồn nhiên từ lâu sống đùa trong những khu rừng rậm của mặt đất này bỗng nhiên được lệnh Thiên Tiên đưa mình đến cung trời Đâu Suất (Tushita) được diện kiến cùng Từ Thị Thế Tôn (Maitreya). Người ta hỏi em rằng: Sao, Đức Từ Thị có đẹp lắm không? Ngài giống ai? Em có được Ngài chỉ bày chân tánh cho chưa? (lavraienature). A! em bé chỉ mở miệng trong cái âm a đó mà thôi và em cảm thấy mình bâng khuâng như không như có… diễn tả gì đây. Hỡi Krishnamurti! Tôi không đủ khả năng biện chứng mà gọi anh là một hóa thể của Milel Mirokou. Nhưng điều tôi có thể tin được anh là một hiện tượng giải thoát toàn bộ những Dukkha! Bởi vì một người đầy đủ chân lý tuyệt đối bởi chân lý cao thượng tuyệt đối (paramanariya-Saccam) Anh là người chỉ cảm xúc mà không có điều kiện dính mắc (visamyulo). Tôi tin rằng người đã thấu triệt thực tướng thì dù hành động như thế nào vẫn là Kriya mà không là Kamma. Hơn nửa thế kỉ rồi anh đã trải dài phạm âm trên từng không của loài người như vành trăng mồng chín, mầu trăng thâm trầm thanh diệu biết bao cho những người sẵn sàng và thưởng thức nó! Nhưng tiếc thay, bên kia bán cầu cái u buồn vẫn còn dầy đặc. Còn bao nhiêu thành phần theo giới thủ cứng nhắc, những tôn giáo hình tượng quá dày sâu vì ái ngã, những người chậm tiến và vô luân, tất cả đều không lợi gì khi nghe tên anh. Tất cả đều hãi hùng khi nhìn về cái triết lý của cây búa trời vô tướng. Họ không chịu nổi một mùa thu lá rụng. Thực ra tôi cũng không thể diễn đạt gì cho chính xác, tôi vốn chỉ là kẻ đồng quê về ngữ pháp ở thế gian này. Chỉ trong tôi vừa hiện lên được sự tràn ngập của "upeckhã", nhờ đó mà có thể bập bẹ trở lại được nguyên âm của thời thơ trẻ... Và từ đó trong tôi sẽ dần hiện ra cái chủng loại "người" đích thật vì tiếng nói trong bản luận án - thư này là một cụ thể hóa nhất diện: "Tôi và anh đều có thật" vì A = A A2 vậy Anh có: tôi có = Tất cả đều có: BHIKKU HUỆ HẢI. Thầy là một đầu đà Tăng gần gũi nhất trong danh từ phạn ngữ: "Bhikkhu" trong kinh Pháp Cú (Dhammapada) phần thứ 25 câu 8 có Phật ngôn rằng: “Sabaso nàmarù pasnum, Yassonathi mamàyitam”. Người không có ý nghĩ TA và CỦA TA, dầu đối với tâm hay thân người không thắc mắc hay lo âu về những gì mình không có - người ấy, thật vậy được gọi là Tỳ kheo. Những kẻ thất học (không hiểu được danh pháp) dốt nát (chạy theo hình tướng) và không hiểu biết (chỉ có Rhatorie) thì thường hay nhìn về hình thức. Vì tác phong của Thầy không như ý họ nghĩ. Người ta ngạc nhiên và nghi hoặc khi nghe và biết rằng Thầy còn "có vợ con"! Họ không tìm thấy được một hình thức tôn giáo ở nơi Thầy (Religion-imajes) kẻ tín ngưỡng (croyance) bên ngoài với bộ óc đầy ắp những hành tưởng (Samskaras, formations wentates) các khối óc chật đầy biểu tượng và giới cấm thủ như vậy không thể nào hiểu được cái "foi" là gì...! Thầy là người dịch về Krishnamurti đầu tiên ở Việt Nam. Thầy có trí thức, có hiểu biết và tiến theo sự kiện có thực chất (có lõi), Thầy đã vượt xa những người tu đạo tầm thường. Như kinh nói: "con ngựa Tuấn bỏ lại sau đám ngựa gầy hèn". (Tuấn liệt truy tiền đạo - hòng hưu khải hậu nhân). Cái hình thức vợ con Thầy là một hình thức liên thuộc có tính chất nhân quả (Sanuppadà và như một point materich: chất điểm. Ginénosite: một tính chất ôn hòa, phúc hậu tự nhiên) mà cái Paticca (liên quan) thuộc về nhân "anta" chứ không phải thuộc "panenppanna". Vì nếu nói cái hiện tại thì phải lấy ý thức là chủ động mà ý trong thầy triển chuyển như một cái không chi - Vous n'attein drez la verite que lorsque vous seriez comme un "Rieu". Hồi tưởng lại những ngày đầu chúng ta gặp nhau tại Biên Hòa, mặc dù hồi ấy tôi chưa được mở mang lắm, với minh sát lờ mờ nhưng tôi rất biết chắc Thầy thuộc loại người độc đáo (một khi biết ai bằng sự biết của mình: vì "ai" phải là đặc biệt thì mình mới có cái biết đặc biệt). Thầy với tôi đã sống gần nhau nhiều ngày liên tiếp. Lúc ấy tôi vừa mới tạm thời giũ rơi được cái chức giảng sư và cũng chỉ mới có quan niệm khước từ bán phần - theo cái vô luyến ngoại tại và tha nhân. Tôi trở về sống đơn độc trong ngôi nhà lớn vắng vẻ và quan liêu bên dòng sông Đồng Nai đầy lặng tĩnh. Nơi đây tôi và thầy đã ăn những bữa cơm bằng gạo lứt muối mè. Có lúc tôi đã coi nhẹ thầy nhưng các dấu hiệu mà thấy của thầy đến trong tôi thật là trọn vẹn. Chúng ta đã đi thăm hãng Cogivina và tôi đã ở lại chơi trên tầng lầu thượng của ông kỹ sư giám đốc này hơn mấy tháng. Sau đó thầy tặng tôi một ngôi trại với khoảnh đất lớn ngoài xa lộ gần bên một hầm sạng trắng. Rồi không bao lâu thầy cũng lặng lẽ trở về trên dòng sông nhiều hương vị, bên cầu Bạch Mã của cố đô xứ Thần - Kinh thơ mộng. Tôi thì sau ngày ấy thuyền mình cũng gặp gió ra khơi. Tôi bắt đầu đùa với biển. Thuyền tôi và những con kình ngư to lớn cùng đuổi bắt nhau trên trùng khơi vi vút. Ôi biết bao lồng lộng sóng gió, mây trời, hiểm nguy, bí mật. Những diệu kỳ và mới lạ đã vung lên và sau cùng tôi đã trở lại quê hương. Tôi đã làm nhiều tập thơ ca tụng sa mạc, ca tụng mặt trời, ca tụng rừng thiên, ca tụng những kẻ giàu và người nghèo, ca tụng lá thu, ca tụng cái bất toàn và viên mãn. Và hôm nay tôi viết lại bản luận án thư này với công thức A = AA 2 theo dàn bài mẫu bản TÂM-TOÀN-GIÁC. Tôi không nguôi khi nghĩ nhớ đến thầy, vì đây là kỷ niệm từ "phi-không" như một tính chất có sự tri âm không nằm trong hủy diệt - Panna Gu Na - karunà - Bây giờ thầy đã viên cao lập trưởng lắm rồi .... liệu chúng còn có thể gặp nhau trong cái giả hợp của tứ đại này? Chúng ta còn có thể nhìn mặt nhau như ngày nào qua ánh mắt phù du: trên dòng thời gian của sự tích trữ năng lượng phi thực này nữa không? Thiên ngoại Tường Vân Hiệu - Liên Phương đồng tử 1. GIÁC NGỘ (BUDDHA)Phật từ tâm không hóa ra Tu hành thờ Phật là thờ: "Tâm Không" Tâm không vô ngã đại đồng Lòng không tham luyến rõ thông nhiệm mầu Nhiệm mầu rốt tận vô vi Vô vô bất tận - phi ly Niết Bàn (Nibbàna) "Pháp Không", Tâm pháp ẩn tàng Không tâm không pháp huy hoàng lạ thay. 2. DỤC (TANHÀ)Trần gian ham muốn bên ngoài Luyến lưu khổ hận những ngày vô nương Ai hay ái thủ vô thường "Biết" là giải thoát chẳng nương vật gì Đó là "Vô Hữu" một khi Lòng trong tánh lặng đường đi tuyệt vời Đạo là Tâm tự Thảnh Thơi Muốn vì niệm khởi, Thấy thời tự đi 3. NIỆMNiệm là hỏi niệm cái chi? Phải có một vật niệm thì mới sanh Niệm với vật là hai thấy rành Hai này là chỗ diệt sanh vô thường Lìa niệm, vô tướng không lường Điểm từ vô điểm tâm thường trụ không Đạo là vô niệm ở lòng Hữu niệm thì bị trói trong cột ngoài 4. GIỚIGiới là Tâm Lượng thẳng ngay Tu hành thờ giới là thờ tâm không Tâm không thờ, thờ giới là lầm Bởi vì giới trói thì tâm phiền hoài Giới từ vị ngã chế ra Ngã mà tiêu diệt thì là giới không Giữ giới để diệt thức tâm Thức mà tiêu diệt thì không giới gì Ji-la gốc trị Sân-ri Gồm theo ngữ tự: Ca-vì rit-ta (Càritta: Bổn phận phải làm) (Vàritta: Những điều nên tránh) Si-ga-tô va-da Sut-ta (Sigàlovàdasutta) Nguyên từ tự tánh mọi loài thanh cao Giới định là một vì sao - Sammàditthi, étoil Lắng bằng cao thấp thẳng vào nội tâm Lòng lo sợ: giới thủ ngầm Nghĩ rằng phước báo sanh tầm nhân thiên Giải thoát không từ những miền Tội phước nhân quả xích xiềng mãi thôi. 5. TACũng vì chỉ một cái tôi Tôi - Ta là cái song đôi hữu hình Ai hay sắc vốn tự sinh Biết từ vọng khởi chẳng tình chẳng ta Ta là chấp vọng Ma-da (vọng tưởng) Sắc thọ tưởng hành thức Ta chỗ nào Cởi mở không còn thấp cao Ngoài trong lặng lẽ ra vào sắc không 6. PHÁP Tâm không thì pháp cũng không Pháp từ huyễn hiện tâm tùy biệt phân Pháp tâm là thể phù vân Chấp lòng diệt tắc trong ngần một khi 7. THỨCThức là mê tại trí tri Biết thức sanh diệt trí tri đặng nào Phân biệt lòng còn thấp cao Vô phân biệt ấy thanh cao nhẹ nhàng Bao giờ tính chẳng bàng hoàng Thức kia biến loại ngang hàng chữ Tâm Lìa thức sinh diệt không lầm Nhẹ nhàng tự thấy thân tâm diệu huyền Theo thức thì lòng đảo điên Bình tâm vô trú là miền tự do 8. THẤY NGHEKiến văn như tợ qua đò Lên bờ bờ mộng còn lo sợ gì Thấy là hỏi thấy cái chi Phải có một vật thấy thì mới sanh Thấy với Vật là hai rõ rành "Hai"này là chỗ ngoài vành chữ Tâm Tâm là vốn tự vô tâm Lầm tâm gọi tưởng âm thầm hại ta Diệt đi quyến niệm la đà Phá hòa hợp uẩn là ca khải hoàn. 9. THẤY LÌA THẤY Chấp Thấy là cái đa mang Thấy-chấp tự nội biết đàng diệt tiêu Bây giờ thấy tự tiêu diêu Thấy là không thấy những điều thị phi Thấy tâm như cảnh vô vi Thấy từ vô thức tâm di động ngừng Thấy mà còn biết còn mừng Thì bị cái biết buộc chân trong ngoài Hóa thành phiền não buộc hoài Phiền não bởi chỗ gốc thời biết sanh Thấy biết tùy tánh đành rành Tùy (duyên) tánh là chỗ tu hành dứt đi Hóa thành không thấy biết chi Tức là Chứng Đạo vô vi thanh nhàn. 10. MINH TÂM KIẾN TÁNHMinh Tâm là minh Tâm Không, Tâm Không thấy biết ở trong ở ngoài. Kiến tánh là tánh thời thời, Vô trụ vô niệm trong ngoài không hai. Hằng khi chực sẵn đổi dời, Hằng khi vô trú lẽ đời Tâm Không. Cái Ta với cái Thức Tâm, Hằng khi giải thoát ở trong “không” này. 11. ÁI KIẾN Do thấy lòng sinh duyên tây Biết trong nhớ mãi mối dây buộc ràng Tâm cảnh luân chuyển tuần hoàn Sanh già bệnh chết là đàng biệt ly Không thấy biết còn nhớ chi Rỗng không tự tại tâm vi nhẹ nhàng Đạo là vô niệm tâm quang Hữu niệm thì bị trái ngang buộc hoài Thấy biết sinh ra đêm ngày Thấy từ chuyển động biết sai huyễn hình 12. Thấy Biết Này Chỗ Thức SinhTạo thành danh sắc vô minh buộc ràng Tâm với cảnh là đàng sinh diệt Bậc trí thường siêu việt tưởng tư Ái kiến không cùng với như Vô ái diệt kiến như như đại hùng Tự mình thấy biết thung dung Ngoài trong tự tĩnh vô cùng lặng trang 13. THẾ TRẦN ÁI THỦ MÀNG MÀNGThấy biết nhớ để trám toàn tâm không Tâm không vô trụ mây hồng Dù cho niệm niệm vẫn dòng thật chân Niệm này chính thật là thân Thân là thân tưởng như vầng bụi sương Hữu niệm còn kẹt ở đường Thấy niệm không tự, tánh thường trụ không 14. CÕI ĐỜI LÀ VÔ AN TRÚPhù du thế sự xoay vòng Sinh linh tự buộc những dòng tang thương Cõi đời là bể vô thường Không nơi an trú không đường dựa nương Ngày ngày khổ nạn khôn lường Bởi vì sanh diệt ta nương cõi đời Thức tâm là tánh chuyển dời Quán tâm thức diệt ta thời vô nương Vô nương giải thoát hai đường Hai đường tâm cảnh không nương chỗ nào Đạo là không trụ nơi nao Hữu trụ thì bị trói vào cảnh tâm 15. ĐẠOĐạo là thấy tận những mầm Các hành nội tĩnh không lầm diệt sanh Đạo là khám phá nguyên nhân Nào phải thay thế những lần khổ tâm Giác là thấy rõ sự lầm Bao giờ toàn giác mê lầm toàn không Bây giờ mới thấy rõ Tâm Chân không vô trụ chẳng lầm lý vô Đạt rồi bất động giao lô Không vô trụ trước không tô những màu 16. TU GIẢI THOÁTTu hành hoán chuyển trước sau Hành tu thoái hoại giữa ngày không gian Giải thoát thoát giải hai đàng Đàng đời đàng đạo rõ ràng rỗng rang Hành nhân dứt bỏ ngang tàn Dùng ý chí đoạn những mầm tập xưa Khổ kia nào khác lọc lừa Thấy là chẳng đổi chỉ chừa tập nhân Đừng lầm đổi tráo phân vân Được thì trơ trụi chẳng thân chẳng đời Dường như mình vượt biển khơi Dường như mình tự chơi vơi ngút ngàn Không tự kỷ không an toàn Ấy là dấu hiệu trên ngàn đỉnh cao Tiêu giao là ở chỗ nào Chính là chẳng trụ chẳng vào chẳng ra 17. DỨT BỎ Hành thiền tứ niệm Ma-ha Thân tâm trơ trụi tột đà rỗng không Chết đi những chuyện bất đồng Chết đi giữa bận mặn nồng ái yêu Nhìn nhìn dục não tiêu diêu Thấy từng thúc động những điều dục tâm A-ha mấy bận xem rồng Này mây này nước này không gian tình Mắt mờ gọi lẽ vô minh Mắt sinh nhãn tịnh thinh thinh tuyệt vời Tâm cao cao tột mây trời Thức không không tột không thời gian không Thời gian nhẹ bóng mây hồng Không gian khói tụ sống vong tâm đồng. 18. TÂM KHÔNGTâm không nào phải khô không Nhưng thường chứa đựng vô cùng lý chơn Hóa thành suối cuộn xanh rờn Ngữ nguyên thuyết tận những cơn hiểm nghèo Giảng giải lý cứu kẻ nghèo Cho người thấy tận thu vèo rụng rơi Cái ta như tự tiếng lời Tiếng ta là bởi những rơi rớt hình Cái người cái ngã vô minh Đập tan tưởng vọng thanh bình tại đây Người ngu rắn hóa thành dây Rắn dây đều mộng đất hay nở chồi Chừa đi một bận rồi thôi Đừng nương đừng dựa ái danh lợi tình Ráng mà thấy thức chuyển sinh Thấy rồi thức lại diện bình chữ tâm 19. THỨCThức là tánh biết nương (duyên) ngoài Lìa nương thì thấy thức thời vô nương Thức là ý phân biệt suy lường Dứt ý tự tịnh suy bằng lặng trang Khi sinh tử ý bàng hoàng Bởi vì thức muốn tầm đàng dựa nương Thức là chỉ bát thức tâm vương Nhưng tâm vô động thức nương đằng nào Thức là chỗ mống động xao Biết là gợn sóng bọt bào tế vi Mắt chạm sắc lòng thì di động Bởi tâm phân biệt cảnh thu hình Từ không lầm có nhận sinh Đây là tưởng biết, thức sinh chỗ này Sóng âm rung động vơi đầy Chạm nhằm tai nọ một giây thanh trần Nhĩ trần xúc chạm chưa phân Cảm thanh tự biết thức phần sinh ra Tỷ căn thanh tịnh như là Nghe mùi nhóm động thọ là thức sanh Thân va chạm tứ phần đại sắc Tâm không hoa biến mặt cảm tình Hiểu là trụ xứ tự đình Này hiểu, này biết, này sinh thức này Lưỡi nếm đụng lòng ngây gọi vị Tùy thích ưa giả ngụy thơm hôi Biết này chuyển động mãi thôi Dựa đường thọ cảm miếng mồi dở ngon Vì phân biệt ý còn xao động Chuyển động này thành rộng thức sanh Lợi danh tâm ý giật giành Cảm tình thì nhất phải dành cho ta Chỗ tự biết thức mà thức động Thức như vòng lửa vọng chuyển quay Thức là đứa tớ ăn mày Xin từ chút biết từ ngày tỷ phân Thức này dường thể phù vân Tùy hơi nước động biến vần nọ kia Thức là chỗ có chia lìa Phân đôi rồi gục sau bìa tử sanh Quán thức như thể khách hành Trong mơ khách muốn vượt sanh tử cầu Quán thức mường tượng lên lần Tình chưa thỏa động mối sầu vô biên Quán thức ngộ thức diệu huyền Thấy thức sinh diệt tại miền hư vô Thức sanh diệt như hồ gợn sóng Quán sóng lòng biết vọng là chân Vọng chân một đóa trong ngần Biết là đã đạt những tầng thẳm sâu Người đắc đạo nhiệm màu vô tỷ Thấy mình là vật lý Như Như Thấy mình không chỗ còn dư Mình người phi tuyệt không từ nơi đâu Mười hai móc xích không đầu Bức hình quang phổ nhuộm màu kính lăng 20. BẢN TÁNH CHƠN KHÔNGÝ còn gọi không năng không sở Chỗ này còn ở đợ chữ không Tánh người bổn thể hư không Vô trụ vô trước không phân trong ngoài Thấy nghe giải thoát liền ngay Sông hồ tự tại những ngày sạch trong Vô minh trí huệ vẫn đồng In tuồng hỗn độn mà thông suốt rồi Phân chia là thức tâm tồi Thức tâm giải thoát không ngôi bực gì Thấy mình như thể ngu si Nhưng hằng giải thoát những khi đổi dời Quang minh trí huệ rạng ngời Vô tâm vô cảnh thời thời không ta Thấy biết từ tánh phát ra Tánh thường thấy biết không ta không người Thung dung tự tại đứng ngồi Đi lại ăn uống không thời chấp nê TÂM KHÔNG ĐÃ BIẾT CHỖ VỀ Hóa thành giải thoát tứ bề không lưu 21. TÂM THỨC VỚI BÓNG TRONG GƯƠNGKhông tâm vốn thật vô ưu Nhận lầm từ thuở thức lưu bóng hình Gương trong là thể nguyên trinh Tướng vào thành tưởng thức tình hiện ra Ấn tượng chùng chập la đà Vì không giác được chuyển ra thọ hành Lầm tâm là tướng thông manh Thức như bóng bọt chói vành gương trong Chấp tâm, tâm chấp vòng vòng Chính là thọ tưởng một dòng sinh sinh Diệt đi ngàn vạn bóng hình Gương lòng vô trụ linh minh nhiệm mầu Thức nguyên tâm vốn một màu Một là vô một, màu là chân không Có ai biết một chữ đồng Tính tâm sáng suốt ở trong thân này Tâm không rỗng tịnh không tày Như gương lồng cảnh đâu hay ám mờ Hình trong gương dệt bài thơ Hình qua gương lại như tờ giấy trinh Thân này như một dòng kinh Xuyên vào tâm ảnh như hình mống treo Thân đây như một chiếc bèo Khi lên khi xuống tùy theo sóng triều Thân tâm giả hợp phiêu phiêu Một hình bóng bọt giữa chiều chiêm bao Cảm biết chuyển động ba đào Sống say chết ngủ biết nào mộng mơ Thân tâm một thể không mờ Thức tâm che đậy làm nhơ não phiền Như như này tự uyên nguyên Một lần hiểu được ly duyên sinh già Lòng từ phát động bài ca Vang vang nhịp điệu san hà chân không 22. TÂM HUỆ TÂM THỨCHuệ từ suốt lẽ thậm thâm Nhờ nghe bát nhã ngộ tâm tuyệt vời Lý chân lý đoạn trùng khơi diệu huyền Tâm sâu đạt thức tâm viên Thức tỉnh tánh đoạn tánh viên huệ bày Mê tâm nhận thức đời sai Rõ tâm tỉnh mộng một ngày muôn năm Thức tâm dối giả mê lầm Vô minh muôn thuở trói tâm tham hoài Bình tâm diệt trí thảnh thơi Hóa thành tự tại đạo đời thung dung Thức tâm diệt huệ tâm sanh Huệ tâm ở chổ hiểu rành thức tâm Thức, huệ suốt lý tột mầm Tức thành vô niệm thanh tâm Niết Bàn Lạ thay ngữ tự rộn ràng Giữa vòng sinh diệt vạn ngàn sáng soi Phàm tiên thánh Phật một nòi Biển trời nhân thú sóng mòi lặng trang Tột cùng thủy tận nhân hoàn Hình thành la võng ngàn ngàn đế châu Không không mà có nhiệm màu Thức tâm ý diệt bến tàu đại an Đạo là ngàn vạn con đàng Thời phương tính tận con đàng tự đâu Đời còn như một nhịp cầu Ngu nhân ái mộ tim dầu tử sanh 23. MỘT NGÀY TU VÔ LẬU NGHIỆP Tùy tâm mê, động sinh thành Xả tâm rọi thức nghiệp đành phải tiêu Ngã sinh ý tại tín điều Tập thành chế định cây nêu tự ngoài Xả buông thức ngã một ngày Thân tâm giải thoát liền ngay thanh nhàn Thung dung hơn cả thiên đàng Nhìn về địa ngục muôn ngàn khổ tâm Vô sanh bi nguyện thậm thâm Giữa vùng hỏa ngục mọc mầm ma ha 24. TIN (FOI)Tin đi cứu tự an hòa Tin đi cứu tự ma ha tại lòng Tín tâm, tâm tự thành trong Vô tín, tín ngưỡng chạy rong ở ngoài Tín tâm, giác ngộ tâm đầu Bất tín tâm địa lập cầu vọng hương Tín tâm một đảo về nương (dipa: đảo = natho) Tín ngưỡng (croyance) ngoại tại lập đường cong cong Tín tâm tâm tự tại lòng Vô tín bất lập còn mong Đại Thừa? Tâm không thấu triệt Vô Thừa Tin là "muốn có" lòng ưa vọng cầu Tín tâm giác ngộ tâm màu Vốn từ tự tánh chẳng cầu mảy chi Tin là tự ngã ngu si Cái ta sáng tịnh tin thì hóa không Tin tướng : vô tướng tâm không Tâm không không tướng còn mong tin gì 25. NGHITu hành ta phải đa nghi Nghi tâm nghi cảnh nghi tà nghi chân Nghi ta giả lập mấy phần? Nghi ta có thật ở trong thân này Nghi ta đâu lại về đây Đâu là uẩn xứ mối dây buộc ràng Bao giờ thức chưa hóa không Thì còn nghi mãi diệt trong diệt ngoài Nghi tình kết tụ như say Gặp người có đạo đập ngay một chùy Tận cùng nghi ngược cái nghi Nghi tâm, tâm nghĩ, ý ly sáng bừng Bây giờ buồn giận tham mừng Vụt thành khói bụi giữa rừng mây bay Tựu thành ngộ đó không ngoài Không bên không giữa ở ngay không gì 26. SỢNgu nhân cả sợ thầm thì Bực trí một quyết đường đi rạng ngời Đố ai biết sợ là chi Sợ từ cái "có" biết vì phân hai Sợ từ ái niệm lai rai Sợ từ mất hữu một mai lạc loài Sợ là tâm chạy bên ngoài Sợ là tâm lậu ở ngay tại tiền Khi sợ lòng loạn đảo điên Tưởng chừng "niệm" động tâm duyên ở ngoài Sợ bùng hét lớn xỉu ngay Là khi tưởng tướng choáng ngay tâm điền Có khi sợ bởi tránh duyên Sợ e giải thoát về miền lạc bang Thông thường sợ bởi hoang mang Vì chưa biết được giả, chân là gì Người hay sợ lòng tham si Càng hay sợ hãi tham si càng nhiều Bao giờ dứt tận luyến yêu Bấy giờ chẳng sợ chẳng siêu động lòng Tâm không không chỗ cầu mong Lòng không để sợ những dòng thị phi Quán tâm tâm nguyện từ bi Hùm beo thú quỉ xem thì như con Lòng từ sánh tận núi non Bi tâm mở rộng lối mòn lợi tha Một mình một chữ Ma Ha Buồm giong biển tận khéo đà độ sanh Quán tâm cảnh quán rõ rành Vô tâm vô cảnh vô danh sắc tùy 27. TÌM KIẾM Ai hay tìm kiếm vô vi Khi tìm tới chỗ tâm thì chơn không Âm thanh sắc tướng chậu lồng Vì chưa đứt đoạn ái tâm nên mờ Đạo đời như một bài thơ Vẽ lên vần luật giữa tờ giấy trinh Hay nào đó một dòng kinh Sinh thành hủy diệt là tình tiết thơ Kẻ tìm tình trạng lơ thơ Kẻ tin tâm trạng lờ mờ biết đâu Kẻ nương ngồi dựa gầm cầu Xem chừng nước cuộn lòng sầu mãi thôi Trí nhân mường tượng lên đồi Ngẩng nhìn mây bạc vành môi nhẹ cười Xanh xanh trời rộng vô dư Hoát nhiên đại ngộ tâm tư chẳng hình Biết mình vạn vật làm thinh Không sanh nào có giữa tình tiết kia Vô sanh bất diệt tính lìa Tình không thức đoạn giữa tia sáng trời Hỡi ôi xin tặng một lời Mây bay ý lộng đạo rơi vãn nhàn 28. GIÁCGiác rời thức lại tâm quang Chân vô vô động vô vàn biệt phân Này đây lá cọng sanh thần Hoa huyền tự tỏa giữa chân thật huyền Giác là soi thấu vạn duyên Giác so mãi tận tâm miền thẳm sâu Giác không căn cảnh đuôi đầu Thức không không tánh không dầu tim sanh Có chăng thọ tưởng hay hành Có chăng mộng thức ngoại vành của tâm Có chăng giác đạo âm thầm Hay là diễn lại tuồng câm mặt trời Giác là soi thấu vạn nơi Giác soi phản giác giác thời vật chi Giác là chỗ hữu vô vi Chân tâm há lại mê ly bụi trần Không tâm pháp tự mấy tầng Không pháp tâm nhóm buồn mừng nỗi chi Pháp tâm tâm pháp vô vi Vô vi, vô niệm kẹt khi ngữ hành Vô thừa mây tự trời xanh Phù vân biến rạng thanh thanh đặng nào Thức từ căn cảnh bàn giao Cảnh căn tự tịnh thức nào đã sanh Thức sanh thời giác hiện hành Giác diệt thức diệt tự thành không hoa Thức sanh là ta hóa sanh Hóa sanh để đặng xưng danh ra ngoài Xưng danh gốc bởi tham đời Tham tâm nhiễm trước hóa lời tuôn ra Lời tuôn từ những chữ ta Chữ ta biến rạng hằng sa muôn hình Mỗi hình đều có mỗi danh Hình danh là cái chứa tình chứa tham Tham là gốc ở thức tâm Thức tâm, hoại diệt tham trong không còn 29. THẤY BIẾT NHỚThấy biết là chuyện đường mòn Vì trong luyến ái "nhớ" còn vật chi Muốn ưa từ chỗ tâm si Mắt phân lầm lộn biết chi dục tình Dục tình tột hiển phân minh Tham si nhuế hận lung linh thức điền Lầm duyên là bởi duyên tâm Duyên này bất động chẳng mầm tại đâu Chấp tâm duyên tự tâm đầu Chấp là duyên hiện giữa màu tịch thanh Xem tâm thấy tự bức mành Nhìn dây tre lát đệm thành chu vi Trí nhân siêu việt chữ thì Vất thân như thể giũ đi bụi đường Thấy thân góp tự bằng sương Làm trong hơi nước bằng dương điện từ Như vòng lửa chạy giả hư Như hoa đóm hiện đến từ giữa không Thân tâm dường trẻ đồng mông Nhìn dòng nước chảy chợt lồng bóng sâu Thấy bóng tưởng mình trôi mau Bé nào biết được mình ngay tại tiền Cái đi đi tự tâm duyên Những hòn bụi bám chảy xuyên qua đầu Thấy ngoài vật cảnh qua mau Nào hay chóng mặt bởi đầu não cân Quay quanh chiếc cột xoay vần Hỏi trời đất quyện hay thân mình nhào Người nói quá khứ tự cao Người rao hiện tại là xao động tình Vị lai tiếng tự vô minh Nhìn không gian động bởi tình kiến xoay Khổ không vô ngã lạc loài Vì tâm vang động ở ngày di cư Biết là trú một chữ như Như như động chuyển khá dư khá thừa Dư làm ngôn luận trời mưa Mưa cho sáng sạch cấy bừa ngã tâm Thừa này bất động thậm thâm Như vua ngự tiệc một mâm tại triều. 30. HỌC THỨCMê nhân tánh tự kênh kiêu Tỉnh nhân tánh tự tiêu diêu tại trần Háo nhân háo động cầu thân Bình nhân nội tịnh tâm thân nhẹ nhàng Ngu nhân thích học làm sang Học nhân bắt chước những trang sử đời Học hành thức tự chơi vơi Học thức là kẻ đắm thời bởi tham Học thức tự hóa long đong Vì chưng thức cõng cái trong cái ngoài Học thức như người đi vay Tầm từ danh số những ngày mộng mơ Kẻ học hình thức mê mờ Tự làm cái thức ngu ngơ lộn đầu Tâm số là trí câu mâu Thức chồng trên thức ở câu học hành Học thức là học Thức Tâm Lầm danh nhiếp tướng nảy mầm tưởng tư Tưởng tư tướng trạng lừ đừ Ấy là thọ cảm ám từ u mê Hoá thành trí nhớ chấp nê Che mờ thật tính nhìn dê hóa rồng Ký ức quá khứ liền trong Lấp mờ hiện thực vọng mong lai kỳ Học thức chẻ bằm vô vi Góp từ hữu hạn làm suy tâm điền Người người học thức đảo điên Chân tâm che tính phan duyên dị đồng Trí lầm che mất chân tâm Học lầm che mất chân không rạng ngời Đâu còn có một nghỉ ngơi Hình danh sắc tướng lấp thời bản chân Chân tâm vô niệm bất phân Học thức hữu niệm những lần cãi tranh Học thức là chỗ tranh giành Tùy theo cái sống biết thành phải sai Luồn trôn đụt háng một mai Cũng vì học thức chiêu bài cạnh tranh Học thức xa rời mối manh Từ tham khởi sợ trượt danh tự đời Kẻ học ham muốn ta thời Cái ta hình trạng biết thời ở mô? Mê học làm kẻ hồ đồ Lênh đênh kiến thức vập vồ dạt trôi Kẻ học là trẻ mồ côi Lấy đầu làm đít kéo lôi tự thầy Hay đâu thầy vẫn tày lay Lềnh bềnh Trí Lự tỉnh say chưa tường Vì ham dựa học mà nương Nghiệp tầm kiến hoặc mù sương phủ đầu Tâm tham cảnh ngoại vọng cầu Nào hay bít lấp tâm đầu từ đây Cái dây lầm tưởng là dây Tưởng dây hay rắn, tưởng nầy cả sai Người thường vọng tưởng lai rai Yêu không tự được phân hai mới đành Tình tang trí lự tham ganh Rồi khi biết động mất danh trí cùng Học đòi là chỗ đại hung Bằm năm xẻ bảy cái thung dung lòng Nhóm tâm vút cảnh nằm trong Thuần căn thuận cảnh lòng vòng hiện ra Một mai căn cảnh mù lòa Trí ngu vất bỏ ngoài xa những gò Học hành chỉ được một mo Bó dành mo chặt, lò vò lại kia Biết cạnh thời chẳng biết bìa Học khôn chỗ nọ chỗ kia chưa tường Bay lên chân nặng lưng chừng Học là lấy hiểu buồn mừng hiện ra Học này không thỏa mãn ta Thời tính vận chuyển lập lòa không gian Gánh nặng quá khứ buộc ràng Chính là sự sống tầm đàng vị lai Chia tâm hiện tại làm hai Luân hồi trước mắt có ai biết gì Học thức làm nghèo vô vi Dầu cho rộng mấy đường đi cũng nghèo Vì gốc là thức quê nghèo Lìa thức tâm mới tự theo sáng bừng Lìa thức tâm thần dịu ngưng Bỗng lòng hoát ngộ mấy từng giao lô Học thức gốc nguồn ngây ngô Vì huệ giác sóng lặng phô diệu huyền Học thức gốc từ dở điên Trí huệ mở hoát nó liền diệt tiêu Bát nhã là tự đồng đều Trí từ cái học kênh kiêu não phiền Vô học liền được tiên thiên Biết từ bắt chước ngục xiềng kéo lôi Học thức là gốc luân hồi Nhị nguyên kiến trí phân đôi lỗi này Một mai chết mất lòng ngây Thân tâm thường thọ những giây não phiền Sinh già bệnh chết triền miên Cũng vì cái học mà điên đảo lòng Học thức làm một đường cong Không gian trĩu nặng quay vòng cuốn lôi Hữu thủ sau khi chết rồi Không nơi nương tựa; động thời phân ly Học thức bánh xe chu kỳ Trong ngoài hợp-hủy, hồi quy buộc ràng Vô Học huyền huyền lặng trang Dù tịnh đó chỉ chút màng nghỉ ngưng Rỗng rang tỏa rạng ngàn từng Mới là quả hậu vụt lừng tâm không Quê mùa chút học tây đông Mọc sau lặn trước lại vòng đêm thâu Biết chi nhờ bức tranh màu Từ tay họa sĩ đậm màu nhạt thanh Kiến thức là nguồn chiến tranh Ngu thời dã thú, biết giành giựt nhau Chiến tranh văn hóa đặt bày Đùn văn minh đến những ngày diệt tiêu Phế hưng lịch sử phập phiều Kìa chân Lăng-tít nọ bên trường thành Hỡi nhà bác học Einstein Nếu ngài trở lại nhân danh những gì Ông rằng ta sẽ hàn chì Hoặc sửa ống nước đường đi lưu hành Ngoài kia sa mạc lưu danh Dựng hình kim tự (pyramide) để danh đời đời Người xưa trí đạt đến nơi Trí lượng tích trữ thuộc thời gian năng Thời gian năng lượng thăng bằng Thời gian vật chất bởi tăng giảm tình Tình trường chuyển động vô minh Hành quay, thức hiện ái sinh luân hồi Một màng trắng toát như vôi Lấy vôi làm phấn viết "Tôi" lên tường Đây là ký hiệu khôn lường Ai từng khám phá sở trường của ai Học thức trí mọn khôi hài Chưa từng thoát hóa những bài tích phân Tâm tham tích trữ ngu đần Xem như tốt đẹp nhưng lần phải buông Luân hồi huân biến thành khuôn Đà - na vi tế tập tuồng bộc lưu Giác tính mới thật tươi cười Vì chân tính giác bằng mười trí khôn Học thức quê nghèo cô thôn Dạn dày bản ngã dập dồn quỷ ma Lũy thừa (exponentiel) nào sánh ma ha Thức còn sanh tử chữ tà hóa tôi Học hành ông táo bình vôi Nhờ cây đa nọ lên ngôi lão thần Khuyên ai lý nghịch vi phân Tự quan sát tĩnh một vầng nguyệt sâu Đấy là vô tỷ nhiệm mầu Tâm thân nhẹ rỗng, thần châu hiện về Quăng đi trí thức nặng nề Vất đi văn tự nhiêu khê hiểm nghèo Buông tay chiếc rụng thu vèo Tợ người giữa mộng vụt gieo giữa vời Giựt mình tỉnh thức đâu nơi? Mộng tâm mộng cảnh sự đời rã tan Trong mơ đá đá vàng vàng Nhân sinh cá lặn huyền quang tuyệt mù. Lưu ý: Đây là sách có bản quyền. Không được sao chép khi chưa được sự cho phép của tác giả |