Ví dụ về truyện cổ tích thần kỳ


Truyện cổ tích là gì? Phân loại, đặc trưng của truyện cổ tích

1. Truyện cổ tích là gì? Truyện cổ tích là những tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. Tuy có những định nghĩa khác nhau, nhưng ta có thể hiểu khái niệm truyện cổ tích tập trung ở 3 nét là: - Truyện cổ tích thuộc loại hình tự sự dân gian phát triển trong thời kì xã hội đã có sự phân chia giai cấp. - Truyện cố tích thể hiện những quan niệm đạo đức, lí tưởng và những ước mơ cao đẹp của nhân dân. - Truyện cổ tích có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc.

2. Phân loại truyện cổ tích.

Truyện cổ tích chia làm 3 loại chính: - Truyện cổ tích về loài vật: Cóc kiện trời, Vì sao lông quạ màu đen, Rùa và thỏ, Kiến giết voi... - Truyện cổ tích thần kì: Tấm Cám, Trầu cau, Chử Đồng Tử, Cây khế, Sọ Dừa, Thạch Sanh... - Truyện cổ tích sinh hoạt: Làm theo lời vợ dặn, Sự tích quả dưa hấu, Cái cân thủy ngân... Trong ba loại truyện cổ tích trên, thì truyện cổ tích thần kì có nội dung phong phú và chiếm số lượng nhiều hơn cả.
3. Đặc trưng của truyện cổ tích - Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo. Cũng giống như thần thoại, truyền thuyết...truyện cổ tích có sự tham gia của các yếu tố kì ảo vào quá trình phát triển cốt truyện. Yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích: + Là những con vật, sự vật có phép màu: cây đàn, nồi cơm Thạch Sanh, lọ xương cá bống của cô Tấm, con chim trong Cây khế... + Là năng lực siêu phàm của nhân vật: sự biến hóa của cô Tấm, Sọ Dừa... + Là những nhân vật siêu thực: Tiên, Bụt... - Truyện cổ tích có cốt truyện khá chặt chẽ, hoàn chỉnh. Sự vận hành cốt truyện của cổ tích khá hoàn chỉnh với các thang bậc: mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút như một cốt truyện hiện đại. Ví dụ: Sự phát triển của cốt truyện trong truyện cổ tích Tấm Cám: + Mở đầu: giới thiệu về nhân vật Tấm trong mối quan hệ với nhân vật Cám và dì ghẻ. + Thắt nút, phát triển xung đột: những lần Tấm bị đối xử bất công: trộm giỏ tép, bị bắt mất cá bống, bị trộn thóc lẫn gạo bắt nhặt, không cho đi xem hội. Nhờ sự giúp đỡ của Bụt, cuối cùng Tấm cũng đến hội, gặp vua và trở thành hoàng hậu. + Cao trào: Tấm bị sát hại, vùng lên đấu tranh qua những lần hóa thân: thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửu, quả thị. + Mở nút: nhà vua tìm thấy Tấm, đón về hoàng cung, trừng trị mẹ con Cám. - Truyện cổ tích có tính giáo huấn cao, mỗi câu chuyện là một bài học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công minh. Giá trị của truyện cổ tích nói riêng và văn học dân gian nói chung là ý nghĩa giáo dục. Tác giả gửi gắm trong mỗi câu chuyện một hoặc nhiều bài học nhân sinh sâu sắc. Đó là những bài học về đạo lí làm người, bài học về tình yêu cuộc sống, bài học về tình cảm gia đình, về ý thức đấu tranh với cái xấu, cái ác... Những bài học đó giúp con người hoàn thiện nhân cách, định hướng giá trị bản thân. Ví dụ: Truyện Tấm Cám là bài học về lẽ sống ở hiền gặp lành, bài học về ý thức đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc cho bản thân trước sự chà đạp của các thế lực tàn ác. Truyện Sự tích quả dưa hấu lại là bài học về đức tính cần cù, tự nỗ lực, về giá trị của sức lao động chân chính...
4. Phân biệt truyện cổ tích và thần thoại. - Giống nhau: + Đều là tác phẩm tự sự dân gian + Đều có các yếu tố hoang đường, kì ảo. - Khác nhau: + Thần thoại ra đời sớm hơn cổ tích. Thần thoại thể hiện quan niệm người xưa về nguồn gốc của thế giới và xung quanh cuộc sống của con người. Truyện cổ tích lại là những câu chuyện gia đình, anh em, bạn bè, người thân các mâu thuẫn xung đột của họ, đặc biệt là trong xã hội phong kiến. + Nhân vật trong thần thoại thường là các vị thần, những anh hung. Nhân vật trong cổ tích là những người thấp cổ, bé họng, bị áp bức bất công trong xã hội có giai cấp.

5. Phân biệt truyện cổ tích và truyền thuyết

- Giống nhau: + Đều là tác phẩm tự sự dân gian + Đều có các yếu tố hoang đường, kì ảo. - Khác nhau: + Nhân vật, sự kiện trong truyền thuyết gắn với các nhân vật lịch sử, có tính chất lịch sử, nên ít nhiều có tính xác thực. Còn nhân vật, sự kiện trong cổ tích phần lớn là tưởng tượng của nhân dân, không có thật. + Truyền thuyết khai thác đề tài có tính lịch sử. Cổ tích khai thác đề tài thế sự, đời tư: câu chuyện gia đình, anh em, bạn bè, người thân các mâu thuẫn xung đột của họ, đặc biệt là trong xã hội phong kiến. + Truyền thuyết: kết thúc truyện thường dạng mở. Cổ tích: thông thường là kết thúc có hậu, người hiền lành được phù trợ, sống hạnh phúc, còn kẻ độc ác bị trừng trị, chịu hình phạt... Nếu đi vào thế giới của truyền thuyết, ta được sống trong không khí lịch sử thiêng liêng, trang trọng thì cổ tích đưa ta vào cuộc sống đời thường gần gũi, thân mật. Cổ tích thường được coi là thế giới của tuổi thơ vì những vẻ đẹp thơ mộng, ngọt ngào của những tấm gương người tốt, vì những yếu tố thần kì, đánh thức trí tưởng tượng, vì những kết thúc có hậu bay bổng, đầy nhân văn... mang đặc trưng suy nghĩ và rung động tuổi thơ.

Video liên quan

Phân biệt truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế sự?Truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế sự [hay cổ tích sinh hoạt] ranh giới giữa chúngkhông phải rõ ràng , dứt khoát, sự phân chia chúng cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tiêu chíquan trọng và chủ yếu nhất để phân biệt truyện cổ tích thế sự và cổ tích thần kì là phươngpháp sáng tác tức là phương pháp chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực. Cả 2 đều dùng hưcấu , tưởng tượng để khái quát, cụ thể hóa xã hội và lí tưởng của nhân dân và lấy con ngườilàm trung tâm để phản ánh. Sự khác nhau của chúng có thể xét trên 1 số phượng diện sau:1. Tính chất, số lượng hư cấu, tưởng tượng.- Cố tích thế sự: hư cấu, tưởng tượng trên cơ sở hiện thực cuộc sống. Yếu tố thần kì xuấthiện ít hơn so vs cổ tích thần kì.- Cổ tích thần kì: hư cấu, tưởng tượng trên cơ sở thực tại và phi thực tại. Cái thực với cáikhông thực kết hợp hài hòa với nhau không thể tách rời.=> Một bên hiện thực cuộc sống là cốt lõi, yếu tố thần kì là thứ yếu; còn một bên cốt lõi,nguồn gốc là từ thế giới quan thần bí tác động vào đời sống hiện thực.2. Vai trò, tác động của yếu tố thần kì.- Cổ tích thần kì: yếu tố thần kì có vai trò quan trọng quyết định hoặc chi phối mạnh mẽđối với sự phát triển và giải quyết xung đột, mâu thuẫn trong truyện.- Cổ tích thế sự: xung đột , mẫu thuẫn trong truyện phát sinh , phát triển và giải quyết bằngtác động của con người , bằng sự vận động của bản thân nhân vật người. Yếu tố thần kìkhông đóng vai trò quyết định hoặc chỉ chi phối theo quy luật thông thường của đời sốngthực tại trần gian.ð Truyện cổ tích thần kì giải quyết xung đột trong cõi thần kì và bằng cái thần kì. Cổ tíchTrang 1thế sự giải quyết xung đột trong đời thực và bằng cái logic của đời sống xã hội. Hư cấu ởđây nếu có cũng chỉ là thứ yếu, giống như cái đường viền.3. Thời gian xuất hiện- Cổ tích thần kì: xuất hiện trong quá trình tan rã xã hội nguyên thủy, hình thành gia đìnhphụ quyền, phát triển của xã hội có giái cấp, nhất là trong xã hội phong kiến.- Cổ tích thế sự: xuất hiện muộn hơn cổ tích thần kì.4. Nhân vật- Cổ tích thần kì: đa số nhân vật chính diện là người thụ động , bất lực trước hoàn cảnh.Truyện cổ tích thần kì lí tưởng hóa các nhân vật chính diện bằng cách làm lại cuộc đời củahọ 1 cách không tưởng và khẳng định phẩm chất của học 1 cách tuyệt đối.- Cổ tích thế sự: nhân vật có tính chủ động, tích cực hơn. Truyện cổ tích thế sự cũng lítưởng hóa nhân vật của mình nhưng theo 1 cách khác: để cho họ tự lo liệu lấy số phậnmình, khẳng định phẩm chất của họ thông qua ứng xử cụ thể của bản thân họ. Sự bế tắccủa họ là sự bế tắc của con người tích cực.5. Không gian, thời gian.- Cổ tích thần kì: Thời gian, không gian trong truyện đa dạng: có thời gian kéo dài, thờigian đứng yên, phi thực…Không gian rộng lớn của bốn cõi: trời , đất, trần gian, hoàngcung, địa ngục. Nhân vật có thể di chuyển tức thời và dễ dàng. Cuộc đời nhân vật cũngđược miêu tả kéo dài trong thời gian, không gian mở rộng, kéo dai với nhiều sự kiện, tìnhhuống khác nhau => mang tính phi thực cao hơn.- Cổ tích thế sự: Không gian, thời gian gần giống với không gian, thời gian thực tại, trầnTrang 2thế trong quan niệm thông thường của nhân dân. Cuộc đời nhân vật được miêu tả tập trung,hạn chế. .Truyện cổ tích sinh hoạt à "gần đời thiết thực"; những câu chuyện vẫn xảy ra trong cuộcsống đa dạng của xã hội loài người.- Truyện cổ tích là loại truyện tự sự dân gian có tâm thế hư cấu, xuất hiện từ rất xưa, chủyếu do các tầng lớp bình dân sáng tác, trong đó óc tưởng tượng [bao gồm cả huyễn tưởng]chiếm phần quan trọng . Có thể có yếu tố hoang đường, kì diệu hoặc không- Phong cách truyện cổ tích thường kết hợp hiện thực với lãng mạnTrang 3- Khái quát hiện thực xã hội ,con người với tư cách “tổng hòa những quan hệ xã hội”.- Trình bày cuộc sống trong trạng thái động của nó, phù hợp với quy luật phát triển nội tạicủa nó, và phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân về cuộc sống đó.- Trình bày cuộc sống trong trạng thái động của nó, phù hợp với quy luật phát triển nội tạicủa nó, và phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân về cuộc sống đó.Truyện cổ tích thần kỳ:giai đoạn đầu thường gắn với thần thoại và có ý nghĩa ma thuậtnhư dũng sĩ diệt trăn tinh [rắn, rồng v.v.] cứu người đẹp; quan hệ dì ghẻ và con riêng; đoạtbáu vật thần thông; người con gái đội lốt thú kỳ dị bí mật giúp đỡ chồng; v.v.II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KÌ1. Nhân vật chính của truyện cổ tích thần kìNgười dũng sĩ [Thạch Sanh – người mồ côi cũng là dũng sĩ diệt chằn tinh và đại bàng,Chàng Hai trong truyện Giết thuồng luồng,…] Nhóm người có tài lạ [Ba chàng thiện nghệ,Bốn anh tài, Anh em sinh năm,…]- Người em út [Lang Liêu trong Sự tích bánh chưng, bánh Dầy, người em trong Hai anhem và Cây khế,…] Người mồ côi [Chử Đồng Tử trong truyện Chử Đồng Tử, Thạch Sanhtrong truyện Thạch Sanh,…]Người con riêng [Tấm trong Tấm Cám, cậu bé trong Sự tích chim đa đa …] Người đi ở[anh trai cày trong Cây tre trăm đốt, cô gái đi ở trong Sự tích con khỉ,…]Người mang lốt vật [Sọ Dừa trong truyện Sọ Dừa, Cóc trong Lấy vợ cóc,…],èMỗi nhân vật trong số những nhân vật trên là tên gọi chung của những nhân vật đồngdạng –có những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành động và số phận và thườngxuất hiện trong những truyện cổ tích thần kì có cốt truyện đại thể giống nhau. Người ta gọilà kiểu nhân vật.à Phân loại nhân vật chính: Loại nhân vật bất hạnh gồm người em út, người con riêng,người mồ côi, người mang lốt vật, người đi ở,… Loại nhân vật kì tài gồm người dũng sĩ vànhững người có tài lạ.1. Nhân vật chính của truyện cổ tích sinh hoạt:Trang 4- Nhân vật xấu xa: đứa con bất hiếu [Đứa con trời đánh,…], người vợ, người chồng bấtnghĩa [Đồng tiền Vạn Lịch,…], người bạn bất lương [Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháugiữ nhà rồi mới sinh ông,…], kẻ lừa đảo để lấy vợ giàu [Dì phải thằng chết trôi, tôi phảiđôi sấu sành,…].- Nhân vật đức hạnh: người mẹ hiền, người con thảo [Mẹ hiền, con thảo], người vợ, ngườichồng tình nghĩa [Nghĩa cũ tình nay, Mài dao dạy vợ,…], người dân lương thiện [Người ănmía và người chủ vườn,…].- Nhân vật mưu trí [trí xảo]: [Trạng Quỳnh, Nói dối như Cuội, Em bé thông minh, Phân xửtài tình,…]Nhân vật khờ khạo [ngốc]: [Đặt lờ trên ngọn cây, Thằng chồng khờ, Chàng ngốc đượckiện, Trạng Lợn,…]2. Xung đột trong truyện cổ tích thần kì* Truyện cổ tích thần kì nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và xung đột giữa conngười với những trở lực của thiên nhiên.- Đề tài về sự xung đột của con người với những trở lực của thiên nhiên à nhằm tìm hiểuvà chế ngự những sức mạnh tự nhiên trong thần thoại và sử thi.- Hai xung đột: xung đột xã hội và xung đột của con người với thiên nhiên làm nảy sinhmột số truyện kết hợp cả hai đề tài ấy. [Truyện Thạch Sanh với hai tình tiết Thạch SanhChằn Tinh, Đại Bàng và Thạch Sanh- Lí Thông, là một ví dụ tiêu biểu].** Truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ sự can thiệp của các lực lượngthần kì. Nhân vật chính ít nhiều có tính chất thụ độngLực lượng thần kì gắn với tín ngưỡng: những nhân vật thần kì [Thần, Bụt, Tiên,…]; nhữngvật có phép màu [ cung tên thần, gươm thần, đàn thần, bút thần, sách ước,…]; sự biến hóasiêu tự nhiên [ người hóa thành vật, vật hóa thành người, vật này hóa thành vật khác, ngườithế này hóa thành người thế khác,…]…Trang 5Lực lượng thần kì cũng có thể chia thành hai loại: lực lượng thần kì trợ thủ của nhân vậtchính [ phía thiện chính nghĩa] và lực lượng thần kì đối thủ của nhân vật chính hay đối thủthần kì [phía ác, phi nghĩa].2. Xung đột trong truyện cổ tích sinh hoạtHai đề tài lớn: đề tài đạo đức và đề tài trí khôn- Thường chỉ đơn giản là những câu chuyện kể mang tính chất minh họa về những tấmgương kiểu mẫu về phẩm hạnh [hiếu, đễ, tiết, nghĩa,…] hoặc những “tấm gương phảndiện” cùng loại à giới hạn ở sự giáo dục đạo đức- Xung đột là xung đột xã hội. Nói đúng hơn, đó là những câu chuyện kể về cuộc tả xunghữu đột của nhân vật mưu trí với đám cường hào, quan lại, thậm chí với cả vua chúa, cảthần thánh va cả sứ của “thiên triều”.Xung đột giữa ngay và gian trong đời thường nhưng là xung đột ở ngay đỉnh điểm, căngthẳng àcách giải quyết những xung đột à ước mơ lãng mạn về một nền công lý sángsuốt, công bằng.è xung đột làm nền cho truyện cổ tích sinh hoạt vẫn là xung đột xã hội.- Đã vượt ra ngoài khuôn khổ của những quan hệ gia đình.Ví dụ: cuộc tả xung hữu đột của Trạng Quỳnh ngay giữa xã hội lớp trên rõ ràng là một biểuhiện sinh động của cuộc đấu tranh của nhân dân chống ách chuyên chế phong kiến.3. Kết cấu của truyện cổ tích thần kì.Phần đầu: nhân vật chính xuất hiện.- Mô típ a: sự xuất thân thấp hèn [ loại nhân vật bất hạnh]- Mô típ b: sự ra đời thần kì [ loại nhân vật kì tàiPhần giữa: cuộc phiêu lưu của nhân vật chính trong “ thế giới cổ tích”.+Ra đi-Mô típ a: rời nhà đi nơi xa.Trang 6- Mô típ b: bước vào tình huống, hoàn cảnh khác thường.+ Gặp thử thách, lực lượng thù địch.- Mô típ a: gặp nhiều [thường là ba ] thử thách, địch thủ.- Mô típ b: gặp một thử thách, địch thủ.+Chiến thắng thử thách, lực lượng thù địch.- Mô típ a: nhờ trợ thủ thần kì.- Mô típ b: bằng tài trí, lòng tốt.Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong “thế giới cổ tích”.- Mô típ a: thưởng [cho nhân vật chính] và phạt [ đối với kẻ ác, lực lượng thù địch].- Mô típ b: nhân vật chính được đền bù, được giải thoát khỏi sự bất hạnh,…nhờ sự biếnhóa siêu nhiênè Tính chất trọn vẹn của câu chuyện kể về số phận, cuộc đời nhân vật chính; tính chấtphiêu lưu của cuộc đời nhân vật chính, vai trò không thể thiếu của yếu tố thần kì,…3. Kết cấu của truyện cổ tích sinh hoạtKhông được xây dựng theo một hoặc một vài sơ đồ kết cấu chung nào. Câu chuyện kểthường linh động, vì những môtip xã hội và sinh hoạt không bền vững.- Kiểu kết cấu “kể sự việc”+ Sử dụng rộng rãi trong nhóm truyện về đề tài đạo đức+ Kiểu kết cấu này hết sức đơn giản,nhân vật thì không có diện mạo, cuộc đời thì chỉ kết ởmột sự việc và trong sự việc ấy hầu như không có xung đột trực diện [Ví dụ: “Mài dao dạyvợ, Giết chó khuyên chồng, Cờ gian bạc lận, Đứa con trời đánh,…]+ Được sử dụng phổ biến ở những truyện cổ tích sinh hoạt về đề tài “Phân xử tài tình”:chỉkể việc, không tả người; nhân vật chính cũng không có số phận à chính sự việc được kểđã vẽ ra tính cách của nó.- Kiểu kết cấu “xâu chuỗi”:àđề tài trí khôn,nhóm truyện “Trạng”. “Trạng Quỳnh” 40 truyện; “Trạng Lợn”20truyện.]Trang 7+ Đó là những câu chuyện kể về những cuộc phiêu lưu của nhân vật mưu trí và của nhânvật khờ khạo.Cuộc phiêu lưu của nhân vật mưu trí thì chủ động>< của nhân vật khờ khạo thì chỉ là nhắmmắt, đưa chân. Kết quả thành bại ra sao thì hoàn toàn bất ngờ không đoán đượcNhư vậy, “Xâu chuỗi” là một biện pháp nghệ thuật kết cấu nằm khắc họa rõ nét thêm tínhcách nhân vật, nâng cao “tầm vóc” của tính cách ấy4. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kì.- Trực tiếp liên hệ đến nhân vật chínhà nói về cuộc đời nhân vật chính. Nhân vật đã qua những không gian rộng lớn, từ xứ sởnày đến xứ sở khác, đến tận nơi cuối đất cùng trời thậm chí xuống cõi âm, xuống thủy phủ,lên cõi tiên,…nhưng thời gian, với nó, như ngưng đọng – nó không già đi, không thay đổi.Liên quan đến những lực lượng thù địch của nhân vật chính và những trợ thủ thần kìcủa nó.àKhác : thời gian mau lẹ đối với những yêu quái, ma ác, quỷ thần và những trợ thủ thầnkì. Con đường nhân vật đi từ vương quốc của yêu quái đến thế giới người xa lắc xa lơ.Nhưng yêu quái truy đuổi nhân vật chính cũng đuổi kịp rất nhanh. Mâu thuẫn về khônggian – thời gian ấy được “điều chỉnh” bởi những trợ thủ thần kì, bởi vì những vai này cũngsống trong cùng thời gian như lực lượng thù địch của nhân vật chính. Hư cấu nảy sinh từđầu mối ấy.- Thời gian truyện cổ tích gắn với tri giác về tiết tấu câu chuyện kể. Hệ thống trùng lặp từ,câu… là chỉ báo về tính “một hồi” hay “nhiều hồi” của chuỗi hành động. Chính chúng tạora tiết tấu của thời gian truyện cổ tích.à Như vậy, thời gian của truyện cổ tích là dòng chảy của chuỗi hành động của nhân vậtchính – nó chậm chạp hay gấp gáp là do động thái của nhân vật chính5. Những công thức cố định trong truyện cổ tích thần kì.Có ba loại công thức cố định: những công thức mở đầu, những công thức kết thúc vànhững công thức trần thuậtTrang 8* Công thức mở đầu:-“Ngày xửa ngày xưa, ở một làng kia, có một,…”.-Truyện các dân tộc thiểu số mở đầu bằng những công thức như “Ngày xưa, vàocái thời chim chích nuốt con sóc, con sóc nuốt con cầy…có một…” [Thái]-“Ngày xưa, lúc chiếc bánh giầy còn biết thổi kèn, đánh trống, người Hmôngcòn chưa biết may quần áo, chưa có vàng bạc, chưa có nhẫn đeo tay…”[Hmông]èNhững công thức ấy đều có chung một đặc điểm hình thức, biểu thị tính chất đặc biệt cổxưa, ám chỉ tính chất “dường như có thể có” của câu chuyện kể.- Chức năng cơ bản của công thức mở đầu là đưa người nghe từ dòng thời gian của cuộcđời hàng ngày vào thời gian của câu chuyện kể, tách rời sinh hoạt hiện tại và, sau đó, nhưtheo một phép màu, nhập thân vào “thế giới cổ tích”.Công thức kết thúcTruyện cổ tích người Việt thường kết thúc: “Từ đó, dân Việt mới có tục ăn trầu…”[Sự tích trầu, cau, vôi]; “Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi, lúc nào con sam đựccũng ôm lấy con sam cái ở dưới nước, như khi chồng ôm vợ để bay qua biển” [Sự tích consam],…Công thức này đưa ra một “dấu vết xưa còn lại” – một tục lệ, một sự vật,... – làmbằng chứng cho “tính chất có thật” của câu chuyện kể.*** Những công thức trần thuậtĐó là những công thức về thời gian, những công thức miêu tả đặc điểm nhân vật, nhữngcông thức miêu tả hoàn cảnh tình huống,…* Các kiểu nhân vật của truyện cổ tích gồm hai cặp nhân vật đối nghịch:đức hạnh vàxấu xa, mưu trí và khờ khạo.- Xuất hiện loại nhân vật “tiêu cực”- Đối với nhóm truyện về đề tài đạo đức: “nhân vật tích cực”, “nhân vật tiêu cực” được xácđịnh bằng tiêu chuẩn đạo đứcTrang 9- Đối với nhóm truyện về đề tài trí khôn, “nhân vật tích cực”, “nhân vật tiêu cực” được xácđịnh theo tiêu chuẩn trí khôn.Ví dụ: Trạng Quỳnh - “Trạng Quỳnh”, Cuội - “Nói dối như Cuội”,…là những nhân vậtmưu trí, trí xảo, do đó đều là “nhân vật tích cực”.- “Nhân vật tiêu cực” về đề tài trí khôn là nhân vật khờ khạo. Dù nó không có biểu hiệnxấu xa về mặt đạo đức nhưng vì do nó ngốc và do ngốc nghếch mà luôn gặp thất bại nênnó được coi là “nhân vật tiêu cực”.4. Không gian và thời gian nghệ thuật của truyện cổ tích sinh hoạtKhông gian và thời gian “cổ tích” trong truyện cổ tích sinh hoạt rất gần gũi với người kể vàngười nghe truyện.- Bối cảnh sinh hoạt của câu chuyện kể quen thuộc với họ: khung cảnh nông thônvà gia đình nông dân;-Những chuyện áp bức bóc lột và đời sống xã hội trong làng xã;-Kẻ buôn bán và chuyện lừa đảo;- Người học trò và chuyện thi cử; chốn cửa quan và chuyện kiện tụng;…àCâu chuyện như xảy ra không xa, mà cũng chưa lâu, trong cuộc đời hàng ngày.5. Thực tại và hư cấu trong truyện cổ tích sinh hoạt- Thực tế thực tại đã trở thành cái nền của câu chuyện kể.Có những truyện được kể như những câu chuyện mắt thấy tai nghe.- Hư cấu không mang tính chất hư cấu kì ảo như ở truyện cổ tích thần kì.+Sử dụng yếu tố kì dị nhằm thể hiện tư tưởng quả báo, thiên mệnh [“Đứa con trời đánh”,“Chum vàng bắt được”,…]+Sự miêu tả phi lí: Câu chuyện kể cho đến một lúc nào đó, hoàn toàn giống như thật;+ Sự miêu tả phóng đại một nét tính cách nào đó của nhân vật [thường là ở loại nhân vật“tiêu cực”] hoặc một tình huống khác thường àTính chất gây cười của nhiều truyện cổtích sinh hoạt bắt nguồn từ chỗ đó.Trang 10Thi pháp truyền thuyết và truyện cổ tích thần kỳ từ góc nhìn so sánh?Truyền Thuyết và truyên cổ tích là hai loại truyện dân gian hình thành và phát triểntrong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.Do đó đặc điểm thi pháp cũng khônggiống nhau.Tuy nhiên bên cạnh sự khác nhau, giữa hai loại truyện này cũng có nhữngmối quan hệ và sự tương đồng nhất địnhI.Về quan hệ giữa hai thể loại:- Xét thời điểm ra đời, truyền thuyết xuất hiện sớm và trước cổ tích rất lâu. Truyềnthuyết tiếp ngay sau thần thoại, . Truyền thuyết được xem là phương cách lý giải lịchsử; cách tưởng nhớ nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử theo quan điểm của nhân dân.- Truyền thuyết luôn gắn liền vận mệnh dân tộc. Nó là sự hòa quyện giữa “niềmtin” và “cái thiêng”; là sự kết hợp giữa “lịch sử” và “hư cấu”.- Trong khi đó, cổ tích ra đời muộn hơn. Cổ tích tiếp sau truyền thuyết- Cổ tích chỉ ra đời trong lòng một xã hội đã phân chia giai cấp và nảy sinh mâu thuẫngiai cấp về quyền lợi, địa vị.- Cổ tích gắn liền số phận những người bất hạnh trong cuộc đời thường. Nó là phươngcách mà nhân dân gởi gắm ước mơ, khát vọng về một cuộc đời tốt đẹp, công bằng, hạnhphúc. Nó là sự hòa quyện giữa “vẻ đẹp hồn nhiên, ngây thơ” và “chất thần kỳ, huyềnảo”; là sự kết hợp giữa “hiện thực” và “hư cấu”.->Như vậy, quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích là quan hệ tiếp nối và song hành. Cổtích tiếp nối truyền thuyết,. Cổ tích song hành cùng truyền thuyết, cùng vận động vàphát triển. Có điều, khi cổ tích hết vai trò tạo ra một “thế giới kỳ ảo chỉ có trong mơước” thì truyền thuyết vẫn còn nhận lãnh sứ mệnh là bộ sử dân gianII. Những điểm giống và khác nhau giữa cổ tích và truyền thuyếta. Điểm giống nhau:CỔ TÍCH THẦNTRUYỀN THUYẾTKỲLỊCH SỬTự sự dân gian [có nhân vật, cốt truyện, tình tiết, lờiDạng thứckể…]ĐIỂM Phương Cùng có sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo, hoangGIỐNG phápđường.NHAU phản ánhTIÊU CHÍ SO SÁNHTrang 11CỔ TÍCH THẦNTRUYỀN THUYẾTKỲLỊCH SỬMọi truyền thuyết đều gắn với nhân vật lịch sử vàNội dungsự kiện lịch sử. Một số truyện cổ tích thần kỳ cũnglịch sửcó nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử.TIÊU CHÍ SO SÁNHChứngtích vănhóaTruyền thuyết thường gắn liền chứng tích văn hóa[địa danh, núi sông, gò bãi, lăng mộ, lễ hội…]. Mộtsố truyện cổ tích thần kỳ cũng gắn liền với chứngtích văn hóa.- Có thể tin hoặckhông tin vào điềuThái độđược kểtiếp nhận - Không có nhu cầugắn tác phẩm vớichứng tích văn hóa- Luôn có niềm tinvào điềuđược kể- Luôn có nhu cầu gắn tácphẩm với chứng tích văn hóa2. Điểm khác nhau:Tuy nhiên, truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại khác biệt nhau cả về chức năng lẫn thipháp.1. Kết cấu văn bản- Kết cấu một văn bản cổ tích nhìn chung ổn định và theo công thức: giới thiệu lailịch, cảnh ngộ nhân vật → nhân vật gặp thử thách → vượt thử thách → kết thúc hạnhphúc.- Đặc biệt, trong cổ tích, kết thúc tác phẩm thường bao giờ cũng có “hậu”. Nhân vậtbao giờ cũng được đền bù xứng đáng cho những bất hạnh, những thử thách nghiệt ngãmà mình phải gánh chịu, phải vượt qua., khiến người nghe [đọc] đều thỏa mãn, khôngchờ đợi gì thêm nữa.- Còn ở truyền thuyết, kết cấu văn bản hầu như không theo một công thức nào. Đặcbiệt, kết thúc tác phẩm luôn theo hướng “mở”. Nhân vật, nếu lập chiến công sẽ bay vềtrời hoặc theo môtíp “đi đâu không biết”. Nhân vật, nếu phải chịu tuẫn tiết, hy sinh thìhiển linh, thành phò trợ nhân dân. Cách kết thúc này khiến nhân vật truyền thuyếtkhông thể trở lại sống cuộc đời thường nhưng cũng không thể chết. Bởi nhân vật đã bấttử trong lòng nhân dân.Trang 12- Về lời kết, cổ tích thần kỳ và truyền thuyết lịch sử hay nhắc đến những chứng tích vănhóa còn lưu lại [một phong tục của làng xã, một tập tính của loài vật, một hình thể củanúi non...]. Tuy nhiên, mục đích kết thúc của hai thể loại khác nhau rõ rệt.- Ở cổ tích, “những chi tiết đó không phải là những bằng chứng chứng tỏ câu chuyệnkể là có thật như những “cổ tích” trong truyền thuyết lịch sử. Đó là những chi tiết nghệthuật nhằm đem lại cho câu chuyện kể có tính chất tưởng tượng, tính chất hư cấu kỳ ảo[tức là truyện cổ tích] một màu sắc có vẻ như thật.- Trong khi đó, ở truyền thuyết, những chứng tích văn hóa được nêu ở cuối tác phẩmlại là thành tố không thể thiếu của thể loại.[Núi Sóc Sơn khi Gióng bau về trời] Nó làyếu tố giữ gìn sức sống của truyền thuyết2. Nhân vật:- Nhân vật chính trong cổ tích, đặc biệt ở cổ tích thần kỳ, là con người của đờithường, trong một xã hội phân chia giai cấp với đầy bất công, ngang trái. Đó là nhữngnhân vật bất hạnh: đứa con mồ côi, đứa con riêng, người con út, người đi ở, nhân vậtxấu xí... Diễn biến số phận của nhân vật trong cổ tích là một chuỗi dài bị thử thách,vượt qua thử thách, để rồi kết thúc có hậu, nhân vật được đền bù, được hưởng hạnhphúc dài lâu trong đời thường.- Trái lại, nhân vật chính trong truyền thuyết luôn là nhân vật lịch sử, là những anhhùng làm nên lịch sử.- Một số đã được chính sử lưu danh, như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, QuangTrung, Trương Định... Nhưng phần nhiều là những anh hùng được nhân dân tônvinh, tưởng nhớ. Họ là những nhân vật quần chúng hướng theo cờ đại nghĩa.- Họ hiện diện trên khắp nẻo đường đánh giặc. Vì một dạ trung thành, dám xả thânphò tá, chở che chủ tướng, hoặc mưu trí lập công..., họ được nhân dân ngợi ca,tưởng nhớ bằng cách đưa vào truyền thuyết, trở thành nhân vật truyền thuyết.- Có điều, kết cuộc của nhân vật trong truyền thuyết luôn mang tính chất “mở”. Nhânvật không như ở cổ tích, luôn gặp kết thúc có hậu, được hưởng hạnh phúc trong đờithường, mà phần nhiều, họ phải chịu tuẫn tiết, hy sinh, hóa thân vào hồn thiêng sôngnúi.- Về nghệ thuật thể hiện, mỗi nhân vật trong cổ tích thần kỳ luôn thuộc về một kiểunhân vật nào đó [người mồ côi, người em út, người xấu xí mà tài ba...]. Nhân vật cổtích được xây dựng theo nguyên tắc: mỗi nhân vật chỉ xuất hiện trong một câuchuyện và chuỗi dị bản của truyện đó mà thôi.-Ví dụ, cô Tấm chỉ có trong cổ tích Tấm Cám; Thạch Sanh chỉ có trong truyện cổtích cùng tên; rồi Sọ Dừa, anh Khoai... cũng không ngoại lệ. Ngay cả trong nhiềucâu chuyện khác nhau, dù người kể chỉ dùng một từ phiếm chỉ: “chàng trai nghèoTrang 13nọ, cô gái kia” nhưng cũng không ai nghĩ rằng đó là một nhân vật được xuất hiệntrong nhiều câu chuyện. Bởi lẽ, trong cổ tích, mỗi tác phẩm là câu chuyện trọn vẹnvề cuộc đời một nhân vật. Một khi cổ tích đã kết thúc rồi thì xem như không còn gìkể thêm về nhân vật nữa.- Như cổ tích, trong truyền thuyết, nhân vật cũng luôn thuộc về một kiểu nhân vật nàođó [nhân vật có biệt tài, nhân vật được giúp sức, nhân vật bị hành quyết...]. Nhưng kháccổ tích, nhân vật trong truyền thuyết còn xuất hiện theo nhóm truyện, hệ thống truyện.Ví dụ, nhóm truyền thuyết về anh hùng Lê Lợi, nhóm truyền thuyết về anh hùngNguyễn Trung Trực, nhóm truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Thiên Hộ Dương... Sởdĩ có hiện tượng này là vì truyền thuyết không bao giờ xuất hiện riêng lẻ. Chính sự hiệndiện của nhân vật lịch sử trong tác phẩm đã giúp các truyền thuyết rời rạc kết dính vớinhau thành từng mảng, nhóm truyện. Nhờ đó, truyền thuyết luôn có số lượng phong phúvà tồn tại theo hệ thống.- Tình tiếtLà tự sự dân gian nên truyền thuyết và cổ tích đều có cốt truyện. Cốt truyện được hìnhthành từ hệ thống các tình tiết.Ở cổ tích, tình tiết chính trong những truyện có cùng kiểu nhân vật thường giống nhau.Ví dụ, ở chuỗi tình tiết nhân vật đi cứu công chúa [tìm người yêu, tìm thuốc quý, tìmkho báu...], trên đường đi, hễ gặp giống vật nào mắc nạn thì chàng trai [cô gái, ngườiem] sẵn lòng dừng lại cứu giúp. Sau này, khi gặp thử thách, nhân vật sẽ lập tức đượcchính các giống vật ấy lần lượt giúp đỡ lại. Hay ở chuỗi tình tiết thử thách, thử tháchsau bao giờ cũng cam go hơn thử thách trước, nhưng lúc nào nhân vật chính cũng vượtqua, để rồi được nhận phần thưởng cao quý hơn lần trước. Sự giống nhau này có thểxem là dạng “đại đồng tiểu dị”.-Còn truyền thuyết không như vậy. Mỗi truyền thuyết đều có những tình tiết riêng biệtcủa mình, kể cả trong những truyện có cùng kiểu nhân vật. Tuy truyền thuyết cũng sửdụng môtíp nhưng những môtíp này không theo công thức định sẵn như ở cổ tích.Ví dụ: nhân vật lịch sử, trên bước đường khởi nghĩa, không phải hễ mình giúp được ai[giống vật gì] thì ắt sau này sẽ được người ấy [giống vật ấy] giúp đỡ lại. Phần nhiều,họ thành công là do bất ngờ có lực lượng phù trợ [trời, thần nhân, quần chúng mộnghĩa]. Và nhân vật lịch sử bao giờ cũng gặp thử thách. Nhưng không phải thử tháchnào họ cũng vượt qua được. Thậm chí, họ còn bất ngờ gặp rủi ro, để rồi chiến bại.- Có thể nói, nếu tình tiết trong cổ tích thường ở dạng “đại đồng tiểu dị” thì tình tiếttrong truyền thuyết lại mang tính cụ thể, không trùng lặp.3.Thời gian và không gian nghệ thuật:Trang 14a.Thời gian:- Trong cổ tích thần kỳ, thời gian luôn mang tính ước lệ, tượng trưng. Chuyện thườngbắt đầu bằng lời dẫn quen thuộc: “ngày xưa, thuở xưa, ngày xưa xưa lắm, không biếtthời nào, một ngày nọ, bỗng hôm kia, vào một đêm trăng…”.- Kiểu thời gian mơ hồ này khiến câu chuyện luôn được bao bọc trong màn sươnghuyền ảo. - Nó gợi ra một quá khứ thật xa xăm, đồng thời toát lên vẻ đẹp một đi khôngtrở lại. Chính sự mơ hồ của thời gian khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn.-Trái lại, thời gian trong truyền thuyết lịch sử bao giờ cũng mang tính xác định. Cóđiều, tính xác định của thời gian trong truyền thuyết không hoàn toàn đồng nhấtvới thời gian thực tế. : “Chẳng hạn như giặc Ân trong truyền thuyết Thánh Gióng.Niên đại trong truyền thuyết này và truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh không ănkhớp gì với sự thật lịch sử. Vậy mà, qua hàng bao thế kỷ, nhân dân vẫn hiểu được:giặc Ân phi lịch sử đó là tượng trưng cho một thứ giặc ngoại xâm, niên đại phi lýđó là ước lệ cho một khoảng thời gian rất xa xưa- Thời gian xác định khiến truyền thuyết luôn gắn với một triều đại cụ thể, thậm chígắn với từng phút giây lịch sử. Trong truyền thuyết, chiến công và số phận củanhân vật lịch sử, nội dung sự kiện lịch sử chỉ có ý nghĩa, chỉ đáng tin khi được gắnkết với những thời điểm lịch sử cụ thể, xác định.- Ví dụ, Thánh Gióng gắn liền thời Hùng Vương giữ nước, Hai Bà Trưng phấtcờ - thời chống xâm lược Hán, Bà Triệu cưỡi voi ra trận - thời chống giặcNgô, Lê Lợi tập hợp hào kiệt - thời chống quân Minh, Trương Định lãnhchức Bình Tây nguyên soái - buổi đầu chống Pháp...- Và hiển nhiên, niềm tin của người nghe [người đọc] truyền thuyết sẽ bị phá vỡ khinhân vật và sự kiện lịch sử bị ghép sai với thời điểm lịch sử. Có thể nói,cụ thể, chínhxác là yêu cầu đặt ra đối với thời gian truyền thuyết. Khác cổ tích, trong truyền thuyết,thời gian càng cụ thể, xác định, tính đáng tin của câu chuyện càng tăng dần.Về cách thể hiện thời gian, truyện cổ tích không quan tâm đến thời gian thực, thờigian vật lý. Nó không có thời gian tâm lý. Trong cổ tích, thời gian giữ vai trò tạo khôngkhí, dẫn dắt, liên kết các tình tiết chứ không nhằm khắc họa tính cách, số phận nhân vật.Nó được xem là một yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác phẩm.Trái lại, truyền thuyết gắn chặt với thời gian thực, thời gian vật lý, đôi khi có cả sựhiện diện của thời gian tâm lý [trong một số truyền thuyết đời sau]. Theo từng mốc thờigian, nhân vật lịch sử sẽ lớn lên, gặp biến cố, lập chiến công và đến hồi kết cuộc [hysinh hoặc hóa thân].-Thời gian trong truyền thuyết không có chức năng tạo nên tính hấp dẫn, lôi cuốn chocâu chuyện như ở cổ tích. Điều quan trọng mà thời gian trong truyền thuyết có thểmang đến cho người nghe [người đọc] chính là tính đáng tin của câu chuyện kể.Trang 15- Nói chung, nếu thời gian trong cổ tích chỉ tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện chứkhông nhằm khẳng định tính xác thực cho nội dung thì ngược lại, thời gian trong truyềnthuyết chỉ giúp khẳng định tính xác thực cho nội dung chứ không nhằm tạo nên tính hấpdẫn cho câu chuyện.b. Không gian:Không gian tức là địa điểm, là nơi chốn mà câu chuyện diễn ra, nơi gắn liền với cuộcđời nhân vật và sự kiện trong tác phẩm.Trong cổ tích thần kỳ, không gian là tất cả cảnh vật, cuộc sống nơi trần thế: một làngquê thân thuộc, với ruộng lúa, đồng cỏ, giếng nước, bờ ao... [Tấm Cám, Sọ Dừa...]; haymột gốc đa to, một khu rừng vắng [Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt...]; hoặc một bãi sôngxa, một vùng biển rộng [Chử Đồng Tử, Sự tích núi Ngũ Hành, Sự tích con dã tràng...].Ngoài ra, còn một dạng không gian khác, đó là thế giới siêu nhiên, kỳ ảo: cõi thiên đình[Cóc kiện trời], cõi tiên [Từ Thức], âm phủ [Sự tích chùa Thủ Huồng], chốn thủy cung[Sự tích con dã tràng, Thạch Sanh...]. Một số truyện cổ tích hội đủ cả không gian đờithường lẫn thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong cổ tích thường được kết hợp vớinhững từ ngữ mang tính phiếm chỉ: ngôi làng nọ, khu rừng kia, bến sông ấy...-Nó cũng không có sự kết nối với một mốc thời gian cụ thể nào trong quá khứ. Nóichung, không gian trong cổ tích không mang tính cụ thể, xác định. Đặc điểm này khiếnkhông gian cổ tích càng mơ hồ, sự chuyển cảnh càng đa dạng thì câu chuyện càng thêmphần hấp dẫn. Nó kéo theo một nét tâm lý tiếp nhận cổ tích là: người nghe [người đọc]không có nhu cầu tìm hiểu ngôi làng ấy, khu rừng ấy... hiện ở địa phương nào, hayngười ta phải làm cách gì để lên được thiên đình, xuống tận thủy cung... Tất cả điều ấylàm cho cổ tích mãi mãi là những câu chuyện về một thế giới kỳ ảo, chỉ có trong mơước.- Khác cổ tích, truyền thuyết không có không gian đời thường, cũng không có thếgiới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong truyền thuyết luôn mang tính cụ thể, xácđịnh.- Nó phải là những địa danh có thực, là không gian lịch sử, gắn liền với nhân vật vàsự kiện lịch sử; gắn liền với thời gian lịch sử xác định. Nó đồng thời là nhữngkhông gian thiêng, trường tồn cùng với sự bất tử của nhân vật lịch sử. Đơn cử, núiTản Viên hóa chốn non thiêng vì gắn liền tên tuổi Sơn Tinh - vị anh hùng trị thuỷ,cũng là một trong Tứ bất tử trên thần điện Việt Nam. Sông Bạch Đằng trở thànhđịa danh lịch sử khi gắn với tên tuổi Ngô Quyền buổi đánh quân Nam Hán; gắn vớithời đại Đông A, khi Trần Hưng Đạo cùng vua tôi nhà Trần đuổi giặc Nguyên –Mông.Trang 16- Cần nói thêm, không gian trong cổ tích, do không mang tính cụ thể, xác định nênkhông chịu sự gán ghép, đặt để, kết dính với bất cứ một địa phương nào. Nói cáchkhác, truyện cổ tích là thể loại không mang tính địa phương, không thuộc sở hữuriêng của bất cứ bộ phận văn học dân gian địa phương nào. Tuy nhiên, nó lại là thểloại mang tầm quốc tế. Nói theo- Trái lại, không gian trong truyền thuyết do mang tính cụ thể, xác định nên luôn gắnliền với những địa phương, vùng miền cụ thể. Truyền thuyết chủ yếu được gìn giữ, lưutruyền do chính những người dân địa phương - nơi đã sinh ra hoặc từng in dấu tíchngười anh hùng. Cho nên, có thể nói, truyền thuyết là thể loại văn học dân gian mangtính địa phương rất đậm nét.c. Vị trí, vai trò của sự kiện lịch sử- Truyện cổ tích nhằm phản ánh cuộc sống thường ngày, với những mối quan hệ giađình, xã hội. Cho nên, sự kiện lịch sử, nếu có, cũng không phải nội dung phản ánh củacổ tích, càng không phải mục đích mà tác phẩm cần lý giải, soi sáng. Phần lớn nhữngsự kiện lịch sử ấy xuất hiện là do có liên quan đến nhân vật lịch sử trong truyện - hệ quảcủa phần truyền thuyết bồi lắng lại.- Trong khi đó, truyền thuyết chủ yếu phản ánh con người và sự kiện lịch sử, cho nên sựkiện lịch sử chính là phần nội dung quan trọng của truyền thuyết, cũng là mục đích màtác phẩm cần lý giải, soi sáng. Có điều, truyền thuyết không làm nhiệm vụ ghi chép nhưsử biên niên. - -Truyền thuyết chỉ thông qua sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ phần nàonhững khuất lấp mà chính sử không nói đến; để rút ra bài học lịch sử theo cách nhìn,cách phán xét của nhân dân.d. Chức năng tác phẩmDo tính nguyên hợp, mỗi thể loại văn học dân gian đều hàm chứa trong nó nhiều chứcnăng. Tuy nhiên, mỗi thể loại vẫn giữ một [hoặc vài] chức năng chủ yếu.-Về nội dung, truyện cổ tích luôn ca ngợi phẩm chất người lao động nghèo, hướng conngười về với hạnh phúc trong đời thường. Truyện cũng phản ánh cuộc đấu tranh giaicấp cùng những xung đột gay gắt về quyền lợi trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Nhưnghình như cổ tích không nhằm giục người ta vùng lên đấu tranh đòi lại công bằng. Bởi cổtích luôn có hậu. Cổ tích luôn luôn trao tặng con người một niềm tin bền vững: ở hiềnsẽ gặp lành, gieo gió thì gặt bão.- Có thể nói, tuy hàm chứa chức năng nhận thức, giáo dục nhưng cổ tích vẫn là thể loạinghiêng về chức năng thẩm mỹ. Bởi lẽ, một câu chuyện cổ tích hấp dẫn, ly kỳ bao giờcũng gợi lên những xúc cảm đẹp, niềm lạc quan cho cả người kể lẫn người nghe. AiTrang 17nấy, một khi đắm chìm vào thế giới cổ tích, đều như được an ủi, động viên, được cơ hộiước mơ và hy vọng.- Còn với truyền thuyết, chức năng chính không phải là thẩm mỹ; mục đích cao nhấtcủa nó không phải là giải trí, cho dù nhiều tác phẩm có nội dung ly kỳ, hấp dẫn. Bởikhông ai đi tìm cảm giác thư giãn, niềm vui thích từ những câu chuyện chiến đấu, hysinh đầy đau thương, bi tráng của cha ông. Mọi người đến với truyền thuyết phần nhiềutừ nhu cầu tâm linh. Từ chỗ nội dung luôn đề cập đến vận mệnh cộng đồng, luôn gắn sốphận mỗi con người với số phận toàn dân tộc, truyền thuyết giúp đời sau hiểu đúng lịchsử dân tộc mình theo quan điểm của nhân dân. Truyền thuyết nhắc nhở mọi người đừnglãng quên tất cả những gì gợi nhớ các bậc anh hùng, nghĩa sĩ đã xả thân vì dân tộc.Truyền thuyết dạy mỗi người biết tự hào về quá khứ và sống có trách nhiệm hơn vớihiện tại.- Nói chung, trong khi cổ tích nghiêng về chức năng thẩm mỹ thì truyền thuyết thiên vềchức năng nhận thức và giáo dục.-d. Thái độ tiếp nhận- Ở Việt Nam, lối mở đầu chuyện bằng cách giới thiệu thời gian, không gian mơ hồ,kiểu “hồi xưa xưa lắm, không biết ở thời nào...” cũng là cách tiếp sức cho tính chất bịađặt của chuyện cổ tích. Còn người nghe [đọc] cổ tích [thuộc mọi dân tộc, mọi thời đại]tuy luôn bị lôi cuốn bởi tính ly kỳ của câu chuyện nhưng không mấy ai tin rằng câuchuyện ấy có thật. Trẻ con hồn nhiên có thể tin là thật. Nhưng chúng sẽ sớm hiểu rằng,cổ tích chỉ là những câu chuyện tưởng tượng, chỉ là giấc mơ đẹp của người xưa. Vềđiều này, Prop từng nhận định,“không tin vào những điều được kể lại trong truyện cổtích” là một dấu hiệu đặc trưng rất quan trọng của truyện cổ tích[xviii].- Nhưng đối với truyền thuyết, niềm tin, đức tin trở thành cốt lõi của tác phẩm. Vìvậy, cả người kể lẫn người nghe [đọc] truyền thuyết đều tin câu chuyện là thật. Niềm tinấy gắn liền với “cái thiêng”. Người ta tin truyền thuyết đến độ đôi khi không xem nó làmột tác phẩm nghệ thuật mang chức năng giải trí mà chính là câu chuyện thuộc về tôngiáo và tín ngưỡng.Bảng 1: SO SÁNH CỔ TÍCH THẦN KỲ VÀ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬTrang 18TRUYỀN THUYẾTLỊCH SỬĐIỂM Thời gian Mơ hồ, ước lệCụ thể, xác định- Không gian đời thường + - Không gian lịch sử, không gianthế giới siêu nhiên, kỳ ảo thiêng- Không gắn với thời gian - Gắn với thời gian lịch sử xáclịch sử xác địnhđịnhKhông- Không gắn liền với nhân - Luôn gắn liền với nhân vật, sựgianvật, sự kiện lịch sử xáckiện lịch sử xác địnhđịnh.- Mang tính địa phương rõ nét- Không mang dấu ấn địaphương- Con người của đời- Nhân vật lịch sử, trong lúc vậnthường, trong xã hội cómệnh dân tộc đang gặp khó khăn,mâu thuẫn giai cấp, nhiều thử thách,Nhân vật bất công,- Số phận nhân vật luôn gắn liền- Số phận nhân vật gắn số phận toàn dân tộc.liền hạnh phúc trong đờithường.Thường giống nhau theoTình tiếtCụ thể, không trùng lặpkiểu “đại đồng tiểu dị”- Nhìn chung ổn định và - Hầu như không theo công thứcKết cấutheo công thức.nào.văn bản- Kết thúc tác phẩm theo - Kết thúc tác phẩm luôn theohướng có “hậu”.hướng “mở”.- Không là nội dung chính - Là nội dung chính của tác phẩmVị trí, vaicủa tác phẩm- Nhằm phản ánh, đánh giá, rút ratrò của sự- Không nhằm phản ánh, bài học lịch sửkiện lịchđánh giá, rút ra bài học lịchsửsửThiên về chức năng thẩm Thiên về chức năng nhận thức vàChức năng mỹ, với mục đích giải trí giáo dục[đánh giá lịch sử; biết ơn,tác phẩm [gợi lên xúc cảm đẹp, niềm tôn thờ, ngưỡng mộ người cólạc quan cho mọi người] công đức]- Có thể tin hoặc không - Luôn có niềm tinvào điều đượctin vào điều được kểkểThái độ- Không có nhu cầu gắn - Luôn có nhu cầu gắn tác phẩmtiếp nhậntác phẩm với chứng tích với chứng tích văn hóavăn hóaTIÊU CHÍ SO SÁNH CỔ TÍCH THẦN KỲTrang 19Trang 20

Video liên quan

Chủ Đề