Vì sao hô hấp liên quan đến sự sống

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Tống Văn Hoàn - Bác sĩ Hồi sức Cấp cứu - Khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bác sĩ có kinh nghiệm 10 năm trong lĩnh vực Hồi sức cấp cứu.

Trong cuộc sống đôi khi gặp phải trường hợp người bị chấn thương, ngừng thở, ngừng tim do đuối nước, ngạt, điện giật... Việc duy trì sự sống của nạn nhân có đạt được hay không phần lớn nhờ vào kỹ thuật sơ cứu. Khi nạn nhân ngưng thở, cần tiến hành hô hấp nhân tạo tại chỗ cho đến khi tự thở lại hoặc khi xác định nạn nhân chắc chắn không qua khỏi. Vậy nguyên lý hô hấp nhân tạo là gì và thực hiện như thế nào?

Hô hấp nhân tạo là biện pháp hỗ trợ hô hấp quan trọng cho bệnh nhân. Nếu tình trạng ngừng thở diễn ra quá lâu sẽ dẫn đến hiện tượng thiếu oxy trong máu và tế bào, khiến tế bào bị tê liệt rồi chết, đầu tiên là tế bào thần kinh.

Dựa trên nguyên tắc hô hấp nhân tạo cần được thực hiện ngay tại nơi nạn nhân bị thương hoặc nơi xảy ra tai nạn, vì đây là một cấp cứu tối khẩn cấp, cần được tiến hành khẩn trương nếu muốn cứu sống nạn nhân.

Hô hấp nhân tạo là biện pháp hỗ trợ hô hấp quan trọng cho bệnh nhân

  • Đặt nạn nhân nằm ngửa, người cấp cứu quỳ ở bên cạnh, ngay sát ngang vai của nạn nhân. Đặt một chiếc gối hoặc áo mềm dưới gáy nạn nhân sao cho đầu hơi ngửa ra sau.
  • Sử dụng một ngón tay có cuốn vải sạch để đưa vào trong miệng nạn nhân và lau hết đờm, dãi, các chất nôn, dị vật nếu có... Sau đó sử dụng một miếng gạc mỏng để che kín miệng nạn nhân [trường hợp không có sẵn có thể thực hiện cấp cứu không đặt gạc, vẫn thổi trực tiếp vào miệng người bị nạn].
  • Theo nguyên tắc hô hấp nhân tạo, người cấp cứu sử dụng một tay để bóp kín 2 bên mũi của nạn nhân, một tay còn lại đẩy mạnh cằm để miệng nạn nhân hé ra.
  • Sau đó người cấp cứu hít một hơi thật mạnh, áp miệng mình vào sát miệng người bị nạn sau đó thổi vào thật mạnh, thổi liên tục 2 hơi đối với người lớn, 2 hơi với trẻ em dưới 8 tuổi, quan sát lồng ngực nạn nhân phồng lên là thực hiện đúng, sau đó để lồng ngực nạn nhân tự xẹp xuống rồi lại thổi tiếp.
  • Thực hiện liên liên tiếp động tác nêu trên với nhịp độ: người lớn và trẻ em trên 8 tuổi thực hiện khoảng 15-20 lần/phút, trẻ dưới 8 tuổi thổi ngạt 20-30 lần/phút.

Ngoài ra, còn có thể thổi ngạt bằng phương pháp miệng – mũi [thổi vào mũi]. Chỉ thực hiện hô hấp nhân tạo cho người bị nạn ngừng thở nhưng tim còn đập.

Có nhiều phương pháp hô hấp nhân tạo khác nhau và tùy trường hợp mà người cấp cứu sẽ lựa chọn một phương pháp thích hợp và hiệu quả nhất. Để biết các phương pháp hô hấp nhân tạo ứng với mỗi trường hợp cụ thể, bạn có thể tham khảo bài viết “Có mấy phương pháp hô hấp nhân tạo?

Lưu ý chỉ thực hiện hô hấp nhân tạo cho người bị nạn ngừng thở nhưng tim còn đập

Nguyên lý hô hấp nhân tạo dựa trên 2 thì hít vào và thì thở ra. Theo lý thuyết hô hấp nhân tạo, vì một nguyên do nào đó mà nạn nhân ngưng thở, không thể tự thực hiện động tác hít vào và thở ra một cách tự nhiên, khi đó nếu được người cấp cứu hô hấp nhân tạo sẽ hỗ trợ đáng kể cho quá trình hô hấp của nạn nhân.

  • Thì hít vào: Nạn nhân không thể tự hít vào, lúc này người cấp cứu sẽ hỗ trợ bằng cách thổi mạnh hơi thở vào phổi của người bị thương, từ đó nạn nhân sẽ được cung cấp lượng oxy cần thiết. Thực tế, hơi thở của người cứu hộ thổi vào phổi của nạn nhân vẫn chứa từ 16 - 17 % thể tích oxy.
  • Thì thở ra: nạn nhân vẫn có thể tự thở ra một cách tự nhiên do tính linh hoạt tự nhiên của lồng ngực.

Để đảm bảo nạn nhân được hô hấp đầy đủ, người cứu hộ phải thực hiện động tác hà hơi thổi ngạt cho nạn nhân với tần số 15-20 lần/phút, tương ứng với 15 đến 20 nhịp thở vừa phải mỗi phút của quá trình hô hấp tự nhiên.

Một nguyên tắc hô hấp nhân tạo quan trọng đó là người cấp cứu phải tiếp tục hô hấp nhân tạo liên tục cho nạn nhân cho đến khi nạn nhân bắt đầu thở lại hoặc khi bắt đầu có được sự hỗ trợ của nhân viên y tế.

Động tác hô hấp nhân tạo thành công có thể quan sát được khi nhìn thấy chuyển động lên xuống của lồng ngực người bị thương khi người cứu hộ thực hiện hà hơi thổi ngạt.

Ngoài việc thổi ngạt bằng phương pháp miệng – miệng như đã đề cập ở trên, Người cứu hộ còn có thể thực hiện thổi ngạt bằng phương pháp miệng – mũi [thổi vào mũi người bị nạn trong khi bịt kín miệng] hoặc sử dụng một ống đặc biệt để thổi vào miệng nạn nhân.

  • Miệng người bị thương co giật
  • Bắt đầu có cử động ở cổ họng hoặc ngón tay
  • Màu da trở lại bình thường
  • Nạn nhân bắt đầu thở độc lập tự phát.

Nạn nhân đã có thể tự thở là dấu hiệu nhận biết sự sống đã trở lại

  • Đầu của người bị thương chưa đủ ngửa ra sau hoặc người cứu hộ thổi quá mạnh vào phổi của người bị thương. Lúc này, phần bên trong của thực quản được đẩy ra, dạ dày của người bị nạn được bơm lên nhờ hơi thở của người cứu hộ, trong khi hơi thở của người cứu hộ lại quá ít đến phổi [nhận biết bằng cách quan sát ngực của người bị thương không nở ra và nhô lên khi thổi hơi vào].
  • Trong quá trình hô hấp nhân tạo, người cứu hộ có thể cảm thấy chóng mặt hoặc xây xẩm, tối mặt. Khi đó, hãy ngừng thở một lúc và sau đó thở bình tĩnh trở lại trong vài giây.
  • Trường hợp người cấp cứu cảm thấy e dè về mặt thẩm mỹ hoặc vệ sinh thì có thể nhanh chóng làm sạch mặt của nạn nhân hoặc che mặt nạn nhân bằng một chiếc khăn tay sạch.

Sau khi tiến hành hô hấp nhân tạo, bệnh nhân có những dấu hiệu nhận biết sự sống trở lại, bạn cần đưa bệnh nhân đến các cơ sở y tế uy tín để cấp cứu kịp thời. Bạn có thể lựa chọn cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec thực hiện cấp cứu hô hấp nhân tạo, hồi sức, điều trị nhiều ca bệnh trong các trường hợp khẩn cấp, tai nạn giao thông và chấn thương nghiêm trọng thường quy. Theo đó, quy trình thăm khám, cấp cứu, hồi sức cho bệnh nhân tại Vinmec đều được thực hiện bài bản, đúng quy trình dưới sự chỉ dẫn, thực hiện của các bác sĩ chuyên khoa được đào tạo bài bản ở cả trong và ngoài nước đem lại tiên lượng điều trị cao, thời gian phục hồi nhanh chóng.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

XEM THÊM:

Các phép đo định lượng về lưu lượng hít vào và thở ra được thu nhận từ đo chức năng hô hấp gắng sức. Sử dụng kẹp để bịt hai lỗ mũi.

Trong đánh giá lưu lượng khí thở ra, bệnh nhân hít vào càng sâu càng tốt, ngậm kín miệng xung quanh ống thổi, thổi ra mạnh và hết sức nhất có thể vào một thiết bị ghi lại lượng khí thổi ra [dung tích khí thở ra gắng sức [FVC]] và thể tích khí thở ra gắng sức trong giây đầu tiên [FEV1]— xem Hình: Biểu đồ hô hấp bình thường. Biểu đồ hô hấp bình thường. ]. Hầu hết các thiết bị hiện đang sử dụng chỉ đo được lưu lượng khí và thời gian để từ đó ước tính thể tích khí thở ra.

Trong đánh giá lưu lượng và thể tích khí hít vào, bệnh nhân thở ra hết mức có thể, sau đó hít vào hết sức.

Những động tác này cung cấp một số chỉ số:

  • FVC: Lượng khí tối đa mà bệnh nhân có thể thở ra hết sức sau khí hít vào hết sức

  • FEV1: Thể tích khí thở ra trong giây đầu tiên

  • Lưu lượng đỉnh [PEF]: Lưu lượng khí tối đa khi bệnh nhân thở ra

FEV1 và FVC giúp phân biệt rối loạn thông khí tắc nghẽn và rối loạn thông khí hạn chế. Một chỉ số FEV1 bình thường sẽ có thể loại trừ bệnh phổi tắc nghẽn không hồi phục trong khi một chỉ số FVC bình thường có thể loại trừ một bệnh lí rối loạn thông khí hạn chế.

FEF25–75% = lưu lượng khí thở ra gắng sức trong khoàng từ 25 đến 75% FVC; FEV1= Thể tích khí thở ra gắng sức trong giây đầu tiên khi đo dung tích sống gắng sức; FVC = dung tích sống gắng sức [lượng khí thở ra tối đa sau khi hít vào tối đa].

Lưu lượng khí thở ra gắng sức trung bình trong khoảng thời gian 25-75% FVC có thể là dấu hiệu nhạy hơn khi đánh giá giới hạn luồng khí trong đường thở nhỏ so với FEV1, nhưng khả năng lặp lại của chỉ số này là rất thấp.

Việc phân tích các chỉ số này phụ thuộc vào sự nỗ lực tốt của bệnh nhân, thường được cải thiện bằng cách hướng dẫn trong thời gian thực hiện. Các biểu đồ hô hấp chấp nhận được cần có:

  • Sự khởi đầu tốt của phép đo [ví dụ, sự thở ra nhanh và hết sức]

  • Quá trình thở ra không bị kết thúc sớm [ví dụ: thời gian thở ra tối thiểu là 6 giây mà không thay đổi về thể tích trong 1 giây cuối]

Sự thay đổi trong các lần thực hiện lặp lại có thể được chấp nhận trong 5% hoặc 100 mL so với các lần thực hiện khác. Các kết quả không đạt được các tiêu chuẩn tối thiểu này cần phải được xem xét cẩn thận.

Video liên quan

Chủ Đề