Vì sao mỹ biểu tình

"Chuyện này quan trọng hơn. Tôi không bận tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Tôi muốn và cần phải ở đây", Patton, thanh niên 24 tuổi tại bang Colorado, Mỹ, cho hay. Anh là một trong những người tham gia làn sóng biểu tình chống nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực của cảnh sát sau khi George Floyd, người đàn ông da màu tại thành phố Minneapolis, bị một cảnh sát da trắng ghì chết.

Đã hai tuần trôi qua kể từ khi cuộc biểu tình đầu tiên nổ ra sau cái chết của Floyd, hàng nghìn người vẫn tập trung tuần hành đòi bình đẳng sắc tộc tại hơn 150 thành phố ở Mỹ. Người dân khắp thế giới, như tại Australia, Anh, Pháp, Đức, cũng bất chấp thời tiết giá lạnh và những quy tắc phòng ngừa Covid-19 để xuống đường thể hiện sự đoàn kết với người biểu tình ở Mỹ.

Quy mô và mức độ của các cuộc biểu tình được cho là chưa từng thấy suốt nhiều thập kỷ và dường như sẽ không sớm lụi tàn. Các con đường, quảng trường tràn ngập những người chấp nhận hủy kế hoạch cá nhân, bớt thời gian làm việc, hoặc vội vàng thuê người trông trẻ để đi biểu tình.

Người biểu tình tập trung tại nơi tưởng niệm George Floyd ở thành phố Minneapolis, bang Minnesota, Mỹ hôm 2/6. Ảnh: NY Times. 

Nhiều người cho biết mọi kế hoạch của họ đã đổ vỡ sau khi nền kinh tế lao dốc vì Covid-19. Với hàng chục triệu lao động mất việc và hàng loạt sinh viên nghỉ học vì trường đóng cửa, họ giờ đây không có gì ngoài thời gian.

"Cảm giác như nơi này là nhà của tôi", Rebecca Agwu, một lao động thất nghiệp vì đại dịch, cho hay. Cô gái 19 tuổi này đã dành 5 ngày để tham gia cuộc biểu tình tại thành phố Denver, bang Colorado, đồng thời tranh thủ trò chuyện với những người đồng cảnh ngộ trong đám đông.

Theo các nhà hoạt động và học giả nghiên cứu về những cuộc biểu tình liên quan đến tình trạng bạo lực của cảnh sát, xả súng trường học, nữ quyền hay nhập cư, cơn thịnh nộ lan rộng vì bất bình đẳng kinh tế và chủng tộc, vấn đề vốn âm ỉ lâu nay, cùng sự thất bại của chính quyền khi xử lý Covid-19, có thể đã giúp phong trào hiện nay sục sôi trong thời gian dài hơn.

"Mọi người đang chứng kiến bất công xảy ra trong mọi lĩnh vực xã hội. Trường học bị đóng cửa. Sinh viên chịu nhiều gánh nặng và nợ nần. Những điều đó đã xát thêm muối vào nỗi đau", Wes Moore, một doanh nhân xã hội, nêu ý kiến.

"Giải pháp cho các cuộc biểu tình lúc nào cũng vậy, lặp đi lặp lại theo một quy trình chuẩn. Họ sẽ triệu tập một ủy ban, tổ chức vài phiên điều trần với sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng. Nhưng lần này một số nhà hoạch định chính sách đã lên tiếng. Đây chính là điểm khác biệt", Jody David Armour, giáo sư luật tại Đại học Nam California, nhận định.

Thị trưởng New York Bill de Blasio cam kết cắt giảm ngân sách của Sở Cảnh sát thành phố và dành nhiều tiền hơn cho các dịch vụ xã hội. Tại Minneapolis, nơi bộ máy thực thi pháp luật từ lâu bị cáo buộc phân biệt chủng tộc, 9 thành viên của hội đồng thành phố cũng muốn tạo ra một hệ thống an ninh công cộng mới thay thế lực lượng cảnh sát.

Công tác tổ chức tốt dường như cũng là một trong những yếu tố giúp duy trì các cuộc biểu tình chống phân biệt chủng tộc ở Mỹ. Nekima Levy Armstrong, một nhà tổ chức ở Minneapolis, từng là phó giáo sư luật tại Đại học St. Thomas trong thành phố. Tuy nhiên, bà nghỉ việc hồi năm 2016 để có thể cống hiến hết mình cho phong trào dân quyền và các cuộc biểu tình.

Hôm 3/6, ngay sau khi quyết định truy tố đối với 4 cảnh sát liên quan đến vụ Floyd bị ghì chết được công bố, Armstrong đã tập hợp được hơn 500 người mang theo những tấm biểu ngữ đòi quyền lợi cho người da màu. Bà cảnh báo 4 cảnh sát có thể được một bồi thẩm đoàn gồm toàn người da trắng xét xử rồi được tha bổng.

"Chúng ta phải tiếp tục đề cao cảnh giác. Chúng ta không thể nghỉ ngơi", Armstrong kêu gọi đám đông tập trung trước một đài truyền hình. "Chúng ta phải tiếp tục tuần hành. Hãy duy trì cuộc biểu tình, tiếp tục nói lên sự thật". Đáp lại lời của bà là những tiếng reo hò và vỗ tay.

Các nhà tổ chức cộng đồng cho rằng nguồn năng lượng biểu tình trên đường phố rồi cũng sẽ hạ nhiệt, nhưng phong trào lần này dường như còn giúp tạo ra một thế hệ các nhà hoạt động mới.

Tại khu vực phía nam bang Florida, các nhà hoạt động đang cố gắng duy trì động lực bằng cách tuyển thêm tình nguyện viên, tổ chức đào tạo, đồng thời đảm bảo mọi người đủ tiền lộ phí để tới tham gia nhiều cuộc biểu tình trong ngày.

"Trước đây, chúng tôi từng chứng kiến động lực phai nhạt dần, nhưng bây giờ mọi người lại muốn biết cách tổ chức biểu tình. Tôi nhận thấy một sự thay đổi", Tifanny Burks, thành viên liên minh đấu tranh vì người da màu tại hạt Broward, bang Florida, cho hay.

Asa Rogers-Shaw, nhà hoạt động 30 tuổi tại thành phố Fort Lauderdale, cho biết không phải ngày nào anh cũng đi biểu tình, mà đang tập trung hoạch định chiến lược để đảm bảo người biểu tình đủ điều kiện duy trì hoạt động. Khi các nhà tổ chức tại hạt Broward mở buổi đào tạo trực tuyến nhằm chỉ dẫn cho người dân cách tiếp tục biểu tình thông qua "những hành động cụ thể", hơn 200 người đã đăng ký.

Cuộc biểu tình vì quyền lợi của người da màu tại thành phố Los Angeles, bang California, Mỹ, hôm 3/6. Ảnh: NY Times.

Các nhà hoạt động tại Mỹ còn cho biết họ chưa bao giờ ngừng đấu tranh và kêu gọi cải cách. Tại thành phố Ferguson, bang Missouri, nơi một thanh niên da màu 18 tuổi bị cảnh sát bắn chết hồi năm 2014, cư dân và các nhà hoạt động đã dành gần 6 năm kêu gọi cải cách hệ thống tòa án, chính sách với cảnh sát và lãnh đạo chính trị. Tuần trước, thành phố này bầu ra thị trưởng người Mỹ gốc Phi đầu tiên là Ella Jones.

Tại Baltimore, gia đình của Tyrone West, người thiệt mạng sau khi đụng độ với cảnh sát hồi năm 2013, vẫn tập trung trên đường phố vào mỗi thứ tư hàng tuần để đòi công lý, đồng thời tưởng niệm những người tử vong vì bạo lực của cảnh sát.

Các nhà hoạt động của phong trào "Mạng sống người da màu cũng quan trọng" tại Los Angeles đã biểu tình ở trung tâm thành phố mỗi thứ tư hàng tuần trong hơn hai năm qua, thường chỉ thu hút vài chục người. Tuy nhiên, hàng nghìn người đã đến gia nhập vào tuần trước.

Valerie Rivera, mẹ của một người bị cảnh sát giết hồi năm 2017, cho biết bà rất vui khi có nhiều người tham gia biểu tình cùng. "Chúng tôi vẫn luôn chờ đợi ngày mà mọi người tràn ngập những con phố này", bà nói.

Trong một cuộc biểu tình gần đây ở thủ đô Washington, một người trong đám đông hét lên rằng tất cả họ sẽ quay lại vào ngày hôm sau. Hàng trăm người sau đó hưởng ứng rồi hô vang khẩu hiệu "Và cả ngày hôm sau nữa!".

Một người biểu tình tên Andrew Jackson cho biết những trải nghiệm của bản thân về sự lạm quyền của cảnh sát khiến anh phải bớt giờ làm để đi tuần hành. Thanh niên 25 tuổi này từng bị cảnh sát chĩa súng vào đầu và chứng kiến con trai của một hàng xóm bị bắn chết.

"Tôi sẽ ra ngoài biểu tình ngày này qua ngày khác", Jackson nói.  

Ánh Ngọc [Theo NY Times]

Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam là các phong trào phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Phong trào diễn ra tại Việt Nam, Mỹ, Liên Xô và nhiều nước trên thế giới, bắt đầu vào năm 1964.[1] Nhiều cuộc biểu tình tại Mỹ đã bị đàn áp bằng bạo lực.

Phe Đại Việt Quốc dân đảng biểu tình tại Sài Gòn, tháng 7 năm 1964 kỷ niệm lần thứ mười của Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954.

Biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Vancouver, Canada [1968]

Trong những năm 1960, có rất nhiều bất ổn về công việc trong các trường đại học khi sinh viên ngày càng tham gia Phong trào Quyền Công dân, Chủ nghĩa Feminist Thứ hai và Phong trào chống chiến tranh. Doug McAdam giải thích thành công của việc vận động quần chúng các tình nguyện viên cho Tự do Mùa Hè về "Tính sẵn có của Tiểu sử", nơi các cá nhân phải có một mức độ tự do về kinh tế, xã hội và tâm lý để có thể tham gia vào các phong trào xã hội quy mô lớn.[5] Giải thích này cũng có thể được áp dụng cho Phong trào Chiến tranh vì nó xảy ra cùng thời gian và cùng các yếu tố tiểu sử được áp dụng cho những người biểu tình chống chiến tranh ở đại học.

Năm 2007, David Meyers cũng giải thích làm thế nào khái niệm về hiệu quả cá nhân ảnh hưởng đến việc vận động quần chúng. Ví dụ, theo luận án của Meyers, xem xét rằng sự giàu có của Hoa Kỳ tăng mạnh sau Thế chiến 2. Vào thời điểm này, Mỹ là một siêu cường và có được sự giàu có tuyệt vời sau 30 năm trầm cảm, chiến tranh và hy sinh. Benjamin T. Harrison [2000] lập luận rằng sự giàu có sau Thế chiến II đã tạo ra giai đoạn cho thế hệ phản kháng trong những năm 1960.[6] Luận điểm trung tâm của ông là Chiến tranh Thế giới và Đại khủng hoảng đã tạo ra 1thế hệ "'từ chối tuân thủ các giá trị chính thống của Hoa Kỳ dẫn tới sự xuất hiện của người Hippies và sự đối kháng.

Phong trào chống chiến tranh đã trở thành một phần của phong trào phản kháng lớn hơn so với các giá trị và thái độ Mỹ truyền thống. Meyers [2007] đã bác bỏ tuyên bố này trong lập luận của mình rằng "đặc quyền tương đối thích thú với giáo dục và khẳng định rằng họ có thể tin tưởng rằng họ có thể tạo ra sự khác biệt."[7] Do các yếu tố hiện tại về sự giàu có, sự sẵn có tiểu sử [được định nghĩa trong các lĩnh vực xã hội học của chủ nghĩa hoạt động như việc thiếu các hạn chế về các mối quan hệ xã hội có thể làm gia tăng hậu quả của việc tham gia vào một phong trào xã hội] quận, hoạt động chính trị gia tăng đáng kể trong các trường đại học.

Số tuyển sinh đại học đạt 9 triệu vào cuối những năm 1960. Các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ có nhiều sinh viên hơn bao giờ hết, và các trường này thường cố gắng hạn chế hành vi của học sinh để duy trì trật tự trong các trường. Để chống lại điều này, nhiều sinh viên đại học trở nên tích cực trong các nguyên nhân thúc đẩy tự do ngôn luận, đầu vào của sinh viên trong chương trình giảng dạy, và chấm dứt những hạn chế xã hội cổ xưa. Sinh viên tham gia phong trào chống chiến tranh bởi vì họ không muốn chiến đấu trong một cuộc nội chiến nước ngoài mà họ tin rằng không quan tâm đến họ hoặc vì họ đã phản đối về mặt đạo đức đối với tất cả chiến tranh. Những người khác không thích chiến tranh vì nó chuyển hướng kinh phí và sự chú ý ra khỏi các vấn đề trong sự phát triển Trí tuệ của Hoa Kỳ và đạt được một quan điểm tự do trong trường đại học khiến nhiều học sinh trở nên tích cực trong phong trào chống chiến tranh. Một nét hấp dẫn khác của phong trào phản đối là sự kiện đó là một sự kiện xã hội phổ biến. Như một sinh viên cho biết,[ai nói?] những cuộc biểu tình chống chiến tranh là những nơi "được đặt, lên cao, và lắng nghe một số tảng đá lớn".[cần dẫn nguồn]

Hầu hết các tổ chức chống lại sinh viên đều có cơ sở hoặc tại trường vì họ dễ dàng tổ chức và tham gia hơn các nhóm quốc gia. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh phổ biến cho các sinh viên đại học đã cố gắng cắt đứt mối quan hệ giữa máy chiến tranh và các trường đại học thông qua việc đốt cháy các lá thư dự thảo, phản đối các trường đại học nâng cấp các bản thảo và phản đối các hội chợ việc làm về quân đội và công nghệ Dow Chemical trong khuôn viên [8][9]. Từ 1969-1970, những người phản đối học sinh đã tấn công 197 tòa nhà của ROTC tại các trường đại học. Các cuộc biểu tình đã tăng lên sau vụ bắn súng của tiểu bang Kent, củng cố ngày càng nhiều sinh viên.

Mặc dù các phương tiện truyền thông thường miêu tả phong trào chống lại học sinh hiếu chiến và phổ biến rộng rãi, chỉ có 10% trong số 2500 trường cao đẳng Hoa Kỳ đã có những cuộc biểu tình bạo lực trong suốt những năm chiến tranh ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1970, hầu hết các phong trào phản kháng của sinh viên đã chết vì cuộc tổng tấn công của Tổng thống Nixon, cuộc suy thoái kinh tế và sự vỡ mộng với sự bất lực của phong trào chống chiến tranh.[10]

Nghệ sĩSửa đổi

Cornelis Vreeswijk, Fred kerström, Gösta Cervin trong một cuộc tuần hành phản đối chiến tranh Việt Nam tại Stockholm, 1965

Nhiều nghệ sĩ trong những năm 1960 và 1970 phản đối chiến tranh và sử dụng sự sáng tạo và sự nghiệp của họ để phản đối rõ ràng cuộc chiến. Các nhà văn và nhà thơ chống lại sự tham gia của chiến tranh bao gồm Allen Ginsberg, Denise Levertov, Robert Duncan và Robert Bly. Các tác phẩm của họ thường kết hợp hình ảnh dựa trên các sự kiện bi thảm của chiến tranh cũng như sự chênh lệch giữa cuộc sống ở Việt Nam và cuộc sống ở Hoa Kỳ.

Các nghệ sỹ thị giác Ronald Haeberle, Peter Saul và Nancy Spero, trong số những thứ khác, sử dụng thiết bị chiến tranh, như súng và máy bay trực thăng, trong các tác phẩm của họ trong khi kết hợp các nhân vật chính trị và chiến tranh quan trọng, miêu tả chính xác quốc gia chịu trách nhiệm về bạo lực. Các nhà làm phim như Lenny Lipton, Jerry Abrams, Peter Gessner, và David Ringo đã tạo ra các bộ phim tài liệu có các cảnh quay thực tế từ cuộc chiến tranh chống chiến tranh nhằm nâng cao nhận thức về chiến tranh và phong trào đối lập đa dạng. Các nhà viết kịch như Frank O'Hara, Sam Shepard, Robert Lowell, Megan Terry, Grant Duay và Kenneth Bernard sử dụng sân khấu như một phương tiện để miêu tả suy nghĩ của họ về Chiến tranh Việt Nam, thường xuyên châm biếm vai trò của Mỹ trên thế giới và đặt cạnh nhau những hậu quả khủng khiếp của chiến tranh với những cảnh bình thường của cuộc sống. Bất kể những nghệ sĩ trung bình, chống chiến tranh đều trải rộng từ những kẻ hòa bình đến những gốc tự do bạo lực và khiến cho người Mỹ suy nghĩ nhiều hơn về cuộc chiến.

Nghệ thuật như phe đối lập chiến tranh khá phổ biến trong những năm đầu của chiến tranh, nhưng nhanh chóng biến mất vì hoạt động chính trị trở thành cách phổ biến và dễ thấy nhất của cuộc chiến.[11]

Phụ nữSửa đổi

Phụ nữ là một bộ phận lớn của phong trào chống chiến tranh, mặc dù họ đôi khi bị xuống hạng thứ hai trong các tổ chức hoặc phải đối mặt với chủ nghĩa tình dục trong các nhóm đối lập.[12] Một số lãnh đạo của các nhóm chống chiến tranh xem phụ nữ như các đối tượng quan hệ tình dục hoặc thư ký, các nhà tư tưởng không thực tế những người có thể đóng góp tích cực và hữu hình với các mục tiêu của nhóm, hoặc tin rằng phụ nữ có thể không thật sự hiểu và tham gia phong trào phản chiến vì họ không bị ảnh hưởng bởi bản thảo.[13] Phụ nữ tham gia vào các nhóm đối lập không thích chủ nghĩa lãng mạn của bạo lực của cả chiến tranh và phong trào chống chiến tranh phổ biến giữa những người biểu tình chống chiến tranh nam.[14]

Bất chấp sự bất bình đẳng, việc tham gia vào các nhóm chống chiến tranh đã cho phép phụ nữ có được kinh nghiệm trong việc tổ chức các cuộc biểu tình và đưa ra những lời hùng biện chiến lược hiệu quả. Những kỹ năng mới này kết hợp với sự không thích của họ về chủ nghĩa tính dục trong phong trào phản đối khiến nhiều phụ nữ phải tách ra khỏi phong trào chống chiến tranh chủ đạo và tạo ra hoặc gia nhập các nhóm chống lại phụ nữ, như là Mẹ cho Hòa bình, Liên đoàn Quốc tế vì hòa bình và Tự do của phụ nữ [WILPF] và Phụ nữ Hòa bình [WSP], còn được gọi là Women For Peace. Nữ quân nhân phục vụ tại Việt Nam tham gia phong trào chống chiến tranh, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bộ máy quan liêu quân sự được thành lập bằng cách viết bài cho các tờ báo chống chiến tranh và chống ma túy.[15]

Các bà mẹ và các thế hệ lớn tuổi của phụ nữ tham gia phong trào phản kháng, như những người ủng hộ hoà bình và người dân phản đối những ảnh hưởng của chiến tranh và dự thảo về thế hệ thanh niên. Những phụ nữ này nhìn thấy dự thảo là một trong những phần không thích nhất của máy chiến tranh và đã tìm cách làm suy yếu bản thân chiến tranh thông qua việc phá hoại dự thảo.

WILPF và WSP thường tổ chức các trung tâm tư vấn dự thảo miễn phí để đưa cho thanh niên những phương pháp hợp pháp và bất hợp pháp để phản đối dự thảo.[13] Các thành viên của WSP đã xuất hiện tại Nhà Trắng mỗi Chủ nhật trong 8 năm từ 11 đến 1 cho một buổi cầu nguyện hòa bình.[16] Những nhóm chống lại phụ nữ như vậy thường dựa vào chủ nghĩa nữ tính, hình ảnh phụ nữ là người chăm sóc ôn hòa của thế giới, thể hiện và hoàn thành mục đích của họ. Chính phủ thường thấy phụ nữ trung niên tham gia vào các tổ chức như các thành viên nguy hiểm nhất của phong trào phản đối vì họ là những công dân bình thường huy động một cách nhanh chóng và hiệu quả.[17]

Nhiều phụ nữ ở Hoa Kỳ đồng tình với thường dân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và tham gia phong trào phản kháng. Họ đã phản đối việc sử dụng napan, một loại vũ khí thạch cao dễ cháy được tạo ra bởi Công ty Hóa chất Dow và được sử dụng làm vũ khí trong chiến tranh, bằng cách tẩy chay Saran Wrap, một sản phẩm khác của công ty.[18]

Đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc đôi khi được tìm thấy trong phong trào chống chiến tranh, và phong trào dân quyền, một số phụ nữ đã tạo ra các tổ chức riêng để thiết lập sự bình đẳng thật sự của giới tính. Trong phong trào chống chiến tranh, phụ nữ trẻ muốn thay đổi triệt để hơn và giảm sự chấp nhận vai trò giới tính xã hội so với các nhà hoạt động nữ cao tuổi[19] Nhà hoạt động nữ quyền trong phong trào phản chiến là tiền đề dẫn tới sự hình thành của Phong trào giải phóng phụ nữ thành lập bình đẳng thật sự cho phụ nữ Mỹ trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống.[20]

Dư luậnSửa đổi

Số người ủng hộ cuộc chiến đã giảm dần khi cuộc chiến diễn ra trong suốt những năm 1960 và đầu thập niên 1970.

William L. Lunch và Peter W. Sperlich đã sưu tầm ý kiến công chúng để xem thử mức độ ủng hộ cuộc chiến từ năm 1965-1971. Những người tham gia cuộc trưng cầu ý kiến được hỏi: "In view of developments since we entered the fighting in Vietnam, do you think the U.S. made a mistake sending troops to fight in Vietnam?" ["Theo như sự leo thang từ khi chúng ta tham chiến ở Việt Nam, bạn có nghĩ nước Mỹ đã phạm sai lầm khi gửi quân đến Việt Nam?"][21]. Họ đã ghi lại kết quả sau:

Tập tin:Bức trướng của Tổng Công đoàn ngành in Nhật Bản ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược [1-5-1965].jpg

Bức trướng của Tổng Công đoàn ngành in Nhật Bản ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược [1/5/1965]

Tập tin:Nhân dân thủ đô Bucaret [Roumania] mít-tinh đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam [30-6-1966].jpg

Nhân dân thủ đô Bucaret [Romania] mít tinh đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam [30-6-1966]

Tháng Tỉ lệ người ủng hộ cuộc chiến
8/1965 52%
3/1966 59%
5/1966 49%
9/1966 48%
11/1966 51%
2/1967 52%
5/1967 50%
7/1967 48%
10/1967 44%
12/1967 48%
2/1968 42%
3/1968 41%
4/1968 40%
8/1968 35%
11/1968 37%
2/1969 39%
10/1969 32%
1/1970 33%
4/1970 34%
5/1970 36%
1/1971 31%
5/1971 28%

Sau tháng 5/1971, Gallup dừng việc hỏi câu hỏi này.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ deLeon, Rudy [ngày 25 tháng 6 năm 2015]. “5 ways Vietnam War changed America”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2017.
  2. ^ “Robert S. McNamara, Architect of a Futile War, Dies at 93”. The New York Times. ngày 7 tháng 7 năm 2009.
  3. ^ Andresen, Lee. Battle Notes. Superior: Savage Press, 2000.
  4. ^ Tại sao tôi chống Chiến tranh Việt Nam?
  5. ^ Meyer, David S. 2007. The Politics of Protest: Social Movements in America. New York: Oxford University Press.
  6. ^ Harrison, Benjamin T. [2000]'Roots of the Anti-Vietnam War Movement,' in Hixson, Walter [ed] the Vietnam Antiwar Movement. New York: Garland Publishing
  7. ^ p49
  8. ^ University of Wisconsin-Madison [2017]. “A Turning Point”. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ Worland, Gayle [8 tháng 10 năm 2017]. “50 years ago, 'Dow Day' left its mark on Madison”. Wisconsin State Journal. Madison, WI: John Humenik. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2017.
  10. ^ Joseph Fry [2007]. David Anderson, John Ernst [biên tập]. The War That Never Ends: Student Opposition to the Vietnam War. University of Kentucky. tr.219–243.
  11. ^ Alexis Greene [1992]. Barbara Tischler [biên tập]. Sights on the Sixties. Rutgers, the State University Press. tr.149–161.
  12. ^ Nina Adams [1992]. Barbara Tischler [biên tập]. Sights on the Sixties. Rutgers, the State University Press. tr.149–161.
  13. ^ a b Swerdlow 1992, tr.159–170Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFSwerdlow1992 [trợ giúp]
  14. ^ Rosen, Ruth [2006]. The World Split Open: How the Modern Women's Movement Changed America. New York: Penguin Books.
  15. ^ Barbara Tischler [1992]. Barbara Tischler [biên tập]. Sights on the Sixties. Rutgers, the State University Press. tr.197–209.
  16. ^ Small 1992, tr.92Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFSmall1992 [trợ giúp]
  17. ^ Small 1992, tr.56Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFSmall1992 [trợ giúp]
  18. ^ Small 1992, tr.44Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFSmall1992 [trợ giúp]
  19. ^ Rosen 2006, tr.201
  20. ^ Adams 1992, tr.182–195Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFAdams1992 [trợ giúp]
  21. ^ Lunch, W. & Sperlich, P. [1979].The Western Political Quarterly. 32[1]. pp. 21–44

Xem thêmSửa đổi

  • Chiến tranh Việt Nam
  • Thảm sát Đại học Tiểu bang Kent
  • Norman Morrison
  • Thích Quảng Đức
  • Nhất Chi Mai
  • Trịnh Công Sơn
  • Danh sách các bài hát về chiến tranh Việt Nam
  • Nhạc Trịnh
  • Nhạc phản chiến

Đọc thêmSửa đổi

  • John Hagan, Northern passage: American Vietnam War resisters in Canada, Harvard University Press, 2001. ISBN 9780674004719
  • Mary Susannah Robbins, Against the Vietnam War: Writings by Activists, Rowman & Littlefield, 2007. ISBN 978074255914
  • Robert R. Tomes, Apocalypse Then: American Intellectuals and the Vietnam War, 1954-1975, New York University Press, 2000. ISBN 9780814782620

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Phản chiến tại Từ điển bách khoa Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề