Xây dựng đề cường chi tiết pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh

Quyền tự do hợp đồng là một trong những bộ phận cơ bản cấu thành nội dung quyền tự do kinh doanh. Cũng cần khẳng định rằng, tự do hợp đồng không chỉ là một bộ phận cấu thành của tự do kinh doanh mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của quyền này. Vì tự do hợp đồng, đến lượt mình lại có nội hàm cụ thể, bao gồm một số quyền riêng nhất định như quyền tự do xác định đối tác; tự do xác định đối tượng hợp đồng; tự do xác định nội dung hợp đồng (quyền và nghĩa vụ của các bên); tự do xác định các biện pháp trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; tự do xác định phương thức giải  quyết tranh chấp phát sinh; tự do lựa chọn hình thức hợp đồng và các quyền tự do khác. Vì vậy, có thể nói, không có tự do hợp đồng thì về cơ bản sẽ không có tự do kinh doanh. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền tự do hợp đồng có tác động to lớn đến việc ghi nhận và thực thi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước yêu cầu về việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng trong điều kiện giao lưu dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thỏa thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng khẳng định: “Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn...”. Thực hiện chủ trương nêu trên của Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật về hợp đồng nhằm xây dựng nền tảng pháp lý thống nhất, đồng bộ, ổn định cho hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam về quyền tự do hợp đồng vẫn còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về quyền tự do hợp đồng là rất cần thiết.
1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do hợp đồng
Ở Việt Nam, Điều 57 Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa khẳng định quyền tự do kinh doanh là một quyền hiến định và là quy định nền tảng cơ sở cho các quyền pháp định khác về tự do kinh doanh được phát triển trong Bộ luật Dân sự các năm 1995, 2005 và 2015; Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005 và 2014; Luật Thương mại các năm 1997 và 2005; Luật Đầu tư năm 2000, 2005 và 2014… Song song đó, các văn bản pháp quy khác cũng được ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể được thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình như: Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Nghị định số 43/2010 ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư năm 2014, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 cùa Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp…
Từ các quy định của pháp luật, có thể thấy, quyền tự do hợp đồng là quyền của các chủ thể được thể hiện ở các khía cạnh chính sau đây: (i) Quyền được tự do bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng; (ii) Quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng; (iii) Quyền được tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng; (iv) Quyền được tự do thỏa thuận  thay đổi nội dung hợp đồng trong quá trình thực hiện; (v) Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng; (vi) Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
1.1. Quyền được tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng
Trong giao kết hợp đồng nói chung, tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản và quan trọng. Theo đó, dù thiết lập quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, thương mại hay lao động thì các chủ thể đều được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt ý chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác giao kết hợp đồng. Quyền tự do giao kết hợp đồng xuất phát từ bản chất của hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với “ý chí thực” của họ.
Quyền tự do giao kết hợp đồng được thể hiện trong pháp luật về hợp đồng khá nhất quán:
- Điều 11 Luật Thương mại năm 2005 quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại: “1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó; 2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”.
- Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” và quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Một trong những điều kiện để hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng có hiệu lực, đó là: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” (điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015).
- Tại Điều 386 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định về đề nghị giao kết hợp đồng như sau: “1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị); 2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.
Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên thể hiện rõ ý định về việc giao kết hợp đồng đối với bên kia. Có rất nhiều cách để thể hiện ý định giao kết hợp đồng, nhưng không phải cách thể hiện nào cũng được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Điều 386 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định hai loại chủ thể được đề nghị gồm: Chủ thể được xác định cụ thể hoặc là công chúng. Đây là căn cứ để xác định lời đề nghị giao kết hợp đồng của cá nhân, doanh nghiệp quảng cáo bằng tờ rơi, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên điện thoại di động hoặc trong địa chỉ email của cá nhân nếu nội dung quảng cáo đó chứa đựng các dấu hiệu của lời đề nghị thì tổ chức, cá nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu trách nhiệm về nội dung cam kết đó.
Bên cạnh đó, bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc về nội dung đã đề nghị đối với bên được đề nghị. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới. Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.
Trên thực tế, quyền tự do, bình đẳng giao kết hợp đồng không được thực hiện trong một số lĩnh vực nhất định. Điển hình nhất là các hợp đồng cung cấp, các dịch vụ công từ các chủ thể là các công ty nhà nước độc quyền phân phối các dịch vụ như điện, nước, điện thoại. Chủ thể giao kết là người dân sử dụng các dịch vụ này thì bị ép ký kết các hợp đồng mẫu đã được soạn sẵn (không được thay đổi), thậm chí khi gây thiệt hại cho người sử dụng cũng không có điều khoản để bồi thường như việc các công ty cung cấp điện tự động ngắt điện làm hư hỏng các thiết bị điện hoặc hư hỏng các sản phẩm đang được sản xuất chưa thành phẩm…
1.2. Quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng
Đây là quyền có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các chủ thể kinh doanh, bởi lẽ, họ sẽ lựa chọn đối tác nào để giao kết phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Văn hóa ứng xử của đối tác, khả năng, kinh nghiệm kinh doanh của đối tác, uy tín của đối tác, các điều kiện lợi ích kinh tế phát sinh từ sự thương thảo hợp đồng… Chủ thể kinh doanh chỉ cần căn cứ vào các quy định pháp luật tương ứng với nội dung hợp đồng ký để thỏa thuận, tuân thủ khi ký kết và thực hiện.
Pháp luật Việt Nam có quy định điều kiện các chủ thể được quyền giao kết các loại hợp đồng: Đối với cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi (Điều 15, 16 Bộ luật Dân sự năm 2015); đại diện của pháp nhân (Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2015); thương nhân (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005). Hệ thống pháp luật hiện hành không quy định cá nhân, pháp nhân, hay thương nhân, người sử dụng lao động hay người lao động nào được quyền giao kết hợp đồng với nhau. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền được lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng cho các chủ thể kinh doanh.
1.3. Quyền được tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng
Quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng là quyền hết sức cơ bản của quyền tự do kinh doanh vì đây là yếu tố cơ bản nhất tác động đến lợi ích của các bên giao kết hợp đồng. Các bên hoàn toàn có quyền lựa chọn đối tượng hàng hóa để mua bán hoặc dịch vụ để cung cấp, thỏa thuận giá cả, cách tính giá, phương thức thanh toán; điều kiện giao nhận hàng, vận chuyển, đóng gói bao bì và các nội dung khác trong hợp đồng trên cơ sở đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích của hai bên. Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi thực hiện quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2012 và các nghị định hướng dẫn đều có những quy định về nội dung của hợp đồng theo hướng các chủ thể phải thỏa thuận đầy đủ các điều khoản chủ yếu để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng; thỏa thuận về nội dung hợp đồng không thể trái với các nội dung thường lệ được quy định bởi pháp luật.
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng, mà các bên có quyền thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Điều 398 Bộ luật này quy định hợp đồng có thể có các nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phương thức giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong hoạt động thương mại, Luật Thương mại năm 2005 thể hiện cụ thể hơn quyền này thông qua việc quy định về các hợp đồng thương mại: Quyền và nghĩa vụ của các bên trong các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại (khuyến mại, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, hộ trợ, triển lãm thương mại), trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại) và một số hợp đồng thương mại khác (gia công thương mại, đấu giá hàng hóa, đầu thầu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ logistic, quá cảnh hàng hóa, dịch vụ giám định, cho thuê hàng hóa, nhượng quyền thương mại) chỉ được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh khi các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng.
Như vậy, quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng của các bên bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm sự thỏa thuận của các bên không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ hay trật tự công cộng (các nguyên tắc cơ bản của pháp luật) như việc các bên không thể tự thỏa thuận trước trong hợp đồng việc bồi thường thiệt hại hợp đồng bằng một mức ấn định trước trong hợp đồng, vì nguyên tắc bồi thường thiệt hại của pháp luật Việt Nam là chỉ chấp nhận cho việc bồi thường đối với những thiệt hại thực tế từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia (Điều 302 và 303 Luật Thương mại năm 2005).
1.4. Quyền được tự do thỏa thuận thay đổi nội dung hợp đồng trong quá trình thực hiện
Quyền tự do thỏa thuận để thay đổi nội dung, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng đã giao kết trong quá trình thực hiện hợp đồng là sự khẳng định quyền trọn vẹn của các chủ thể kinh doanh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tôn trọng sự quyết định ý chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể là quyết định thay đổi một phần hợp đồng, hoặc quyết định chấm dứt hợp đồng khi ý chí của cả hai bên trong hợp đồng muốn thay đổi, bổ sung hợp đồng đã ký kết.
Về điều kiện sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trước khi hết hạn, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có ghi nhận vấn đề này, nhưng không gợi mở trong các nội dung hợp đồng, mà ghi nhận riêng về sửa đổi hợp đồng dân sự (Điều 421 Bộ luật Dân sự năm 2015), chấm dứt hợp đồng dân sự (Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015). Những vấn đề này, sẽ được các bên thỏa thuận trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Bên cạnh đó, Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định ghi nhận về việc điều chỉnh các nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.
1.5. Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng
Điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng là một trong các nội dung cơ bản để quyết định sự thành công của hợp đồng, đảm bảo các quyền nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện bằng một giao dịch thế chấp tài sản, hoặc giao dịch bảo đảm thanh toán của tổ chức tín dụng, hoặc một bên thứ ba bằng một tài sản là bất động sản hay một nguồn tiền từ một tài khoản ngân hàng; điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng liên quan mật thiết đối với trách nhiệm tài chính hữu hạn phát sinh trong một hợp đồng.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đảm bảo quyền tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng bằng các quy định: (i) Về biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 292); (ii) Về cầm cố tài sản (từ Điều 309 đến Điều 316); (iii) Về thế chấp tài sản (từ Điều 317 đến Điều 327); (iv) Về đặt cọc, ký cược, ký quỹ (Điều 328 đến 334; (v) Về bảo lãnh (từ Điều 335 đến Điều 343); (vi) Về tín chấp (từ Điều 344 đến Điều 345) (vii) Về cầm giữ tài sản ( từ Điều 346 đến Điều 350).
Trong quan hệ dân sự, các bên có thể thỏa thuận bảo đảm một phần nghĩa vụ vì bên có nghĩa vụ không có đủ khả năng tài sản để bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ. Các bên có thỏa thuận lựa chọn áp dụng một biện pháp bảo đảm phù hợp với tính chất của quan hệ nghĩa vụ và khả năng tài sản của mình hoặc pháp luật có quy định một số quan hệ nghĩa vụ phải có biện pháp bảo đảm. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
1.6. Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp đồng
Về quyền tự do lựa chọn luật giải quyết tranh chấp được thể hiện khá đa dạng: Khi có tranh chấp, các bên có thể tự quyết định việc giải quyết bằng một trong các hình thức sau đây: Thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Quy định này được thể hiện tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005. Cùng với đó, các văn bản pháp luật có liên quan cũng ghi nhận về quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam khuyến khích và ưu tiên các phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải. Tại Điều 7 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng  ghi nhận: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích”.
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Tòa án, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự, tại khoản 11 đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ “Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành”. Quy định này đã góp phần đảm bảo quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của các bên. Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng có quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau, Thẩm phán có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì, khi lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì: (i) Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài thì áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; (ii) Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, thì áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; (iii) Nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định luật để giải quyết tranh chấp; (iv) Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo các quy định trên, chỉ ngoại trừ trường hợp đã được luật quy định thì các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận và khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì cơ hội lựa chọn luật áp dụng nước ngoài giải quyết tranh chấp được rộng hơn, còn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp thì hạn chế hơn.
2. Thực trạng pháp luật về quyền tự do hợp đồng
2.1. Những thành tựu cơ bản
Một là, quyền tự do hợp đồng là quyền cơ bản trong giao kết hợp đồng giữa các chủ thể. Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý khá hoàn chỉnh để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, quyền tự do hợp đồng. Trong đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ở Việt Nam cơ bản bao gồm: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 và các luật chuyên ngành khác. Việc thông qua các đạo luật này đã đánh dấu một bước pháp điển hóa quan trọng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật hợp đồng theo hướng ngày càng bảo đảm quyền tự do hợp đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập pháp luật về hợp đồng của Việt Nam.
Hai là, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận nhiều cơ chế để bảo đảm việc thực thi quyền tự do hợp đồng. Trong số các đảm bảo đó, đáng lưu ý nhất là việc Bộ luật Dân sự năm 2015 đã mở rộng quyền tự quyết định nội dung hợp đồng của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng, hạn chế sự can thiệp của cơ quan công quyền vào hoạt động giao kết, thực hiện hợp đồng.
Ba là, trong thực tiễn, quyền tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng giữa các bên được thực hiện khá phổ biến, rộng rãi, các bên giao kết hợp đồng đều nhận thức đầy đủ và thực hiện tốt về quyền năng này trong phạm vi có thể, thể hiện rõ như: Các bên lợi thế trong hợp đồng sẽ có sự lựa chọn đối tác yếu thế hơn để lấn át ý chí khi giao kết hợp đồng với mục đích tìm kiếm lợi ích cao nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác đó hoặc một thương nhân xuất khẩu hàng may mặc được tự do lựa chọn một đối tác sản xuất, gia công hàng may mặc có uy tín về chất lượng để giao kết hợp đồng gia công hàng may mặc xuất khẩu.
2.2. Một số hạn chế, bất cập
Mặc dù Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng và đảm bảo quyền tự do hợp đồng, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về quyền tự do hợp đồng, cụ thể:
Thứ nhất, còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của luật chuyên ngành với Bộ luật Dân sự năm 2015, như: Quy định lại những quy định chung của Bộ luật Dân sự hoặc không có sự thống nhất khi quy định về hợp đồng, cụ thể:
- Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra các quy định tùy nghi khi quy định về nội dung hợp đồng nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng của các bên trong hợp đồng, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các thỏa thuận của các bên so với các quy định của pháp luật, tuy nhiên, các đạo luật chuyên ngành lại không thống nhất trong việc ghi nhận kỹ thuật lập pháp này. Một số đạo luật chuyên ngành khác quy định về hoạt động thương mại đặc thù, ví dụ như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Điện lực,… lại thường sử dụng các quy phạm bắt buộc khi quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
- Hiện nay, một số luật chuyên ngành còn quy định lại những quy định chung về hợp đồng đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ví dụ: Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) có những quy định về hợp đồng trong họat động hàng không như: Vận chuyển hàng hóa, vận chuyển hành khách và hành lý... (Mục 3, 4, 5, 6 chương VI), Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về hợp đồng dịch vụ (chương III), trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định về các loại hợp đồng cụ thể này tại Mục 10 - Một số hợp đồng thông dụng. Chương XVI Phần thứ ba đã có quy định về hợp đồng vận chuyển hành khách, hợp đồng vận chuyển tài sản, hợp đồng dịch vụ. Việc các luật chuyên ngành có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã gây phức tạp trong việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến quyền tự do hợp đồng.
- Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công  nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Có rất nhiều quy định của các luật chuyên ngành bắt buộc hợp đồng phải có công chứng, chứng thực thì mới có hiệu lực pháp lý: Ví dụ như, quy định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 về Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở: “Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân xã đối với nhà ở tại nông thôn...”. Như vậy, quy định này mâu thuẫn với Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành thì trong trường hợp này, nếu các bên chưa công chứng, chứng thực mà đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng vẫn không có giá trị pháp lý. Nếu một bên lợi dụng việc này, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì gây thiệt hại lớn cho bên còn lại, không đảm bảo được tính công bằng cho các bên cũng như sự tự do hợp đồng trong trường hợp cả hai bên đều thống nhất thỏa thuận mà không công chứng, chứng thực.
Thứ hai, những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 về hình thức hợp đồng đã bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, thể hiện xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu lực, cam kết của các bên mà không phụ thuộc vào hình thức hợp đồng (trừ trường hợp có thỏa thuận khác, hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng). Tuy nhiên, thực tiễn quy định pháp luật Việt Nam cho thấy, pháp luật hợp đồng Việt Nam còn quy định quá nhiều trong việc trường hợp hợp đồng phải tuân thủ điều kiện về hình thức văn bản hợp đồng. Điều này đã làm hạn chế phần nào quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng.
Thứ ba, đối với mua bán hàng hoá quốc tế (khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2015), phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, trong khi đó, Công ước Viên năm 1980 quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có hình thức đa dạng hơn, chỉ cần có người làm chứng thì hợp đồng cũng được công nhận. Sự giới hạn này hiện nay là một rào cản gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh trong nước, hạn chế quyền tự do kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong nước, không thể kiện các đối tác nước ngoài khi họ ký kết hợp đồng theo hình thức có người làm chứng là bên môi giới.
Thứ tư, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn còn một số quy định bất cập, vướng mắc:
- Khoản 3 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của trọng tài liên quan đến việc điều chỉnh lại hợp đồng. Việc này sẽ dẫn tới bất cập trong quá trình vận dụng khi các bên có thỏa thuận trọng tài.
- Bên cạnh đó, cả 05 điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều không thể hiện được yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản là hoàn cảnh mà các bên đã căn cứ để thỏa thuận, thống nhất nội dung hợp đồng. Điểm c khoản 1 điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ xác định mức độ thay đổi hoàn cảnh, chứ không thể hiện rõ tính liên quan giữa hoàn cảnh với nội dung của hợp đồng. Quy định này gây ảnh hưởng đến việc xác định tiêu chí khi nào việc thay đổi hoàn cảnh là thay đổi cơ bản, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam hiện nay
Một là, cần có quy định luật chuyên ngành phải nằm trong mối quan hệ thống nhất với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành phải phù hợp với các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, không đề cập đến các nội dung đã được quy định mà chỉ quy định những nội dung mang tính đặc thù về giao kết hợp đồng trong từng lĩnh vực đặc thù. Các quy định cần cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng không được trái với Bộ luật Dân sự năm 2015, không trái với nguyên tắc tự do hợp đồng.
Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa hợp lý trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp từ những vướng mắc nêu trên.
Hai là, nâng cao quyền tự do hợp đồng thông qua việc quy định logic hệ thống pháp luật Việt Nam, việc nâng cao quyền tự do kinh doanh giúp các chủ thể kinh doanh có thể thoải mái và tự do hơn trong quá trình giao kết hợp đồng, tuy nhiên, pháp luật cũng phải quy định chặt chẽ vấn đề này, để tránh kẽ hở cho các chủ thể kinh doanh lợi dụng vi phạm luật.
Ba là, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền pháp luật về quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do trong giao kết thực hiện hợp đồng nói riêng để các chủ thể kinh doanh có thể nắm bắt đầy đủ các quyền năng của mình mà pháp luật đã quy định, bảo vệ, cho phép các chủ thể kinh doanh thực hiện. Sự nắm bắt và hiểu rõ các quyền này có ý nghĩa rất lớn là tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh biết các quyền của mình cũng như những quy định khác của pháp luật cần phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh, tránh các rủi ro pháp lý.
Bốn là, cần tiếp thu kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài để cải thiện quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh trong nước với đối tác nước ngoài. Việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài trong quá trình chuyển đổi, hội nhập hiện nay của Việt Nam là cần thiết, nó mang tính thực tiễn và kinh tế. Việc này sẽ giúp Việt Nam có được một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh; tránh được những rủi ro, tranh chấp trong kinh doanh quốc tế do xung đột pháp luật.
Có thể nói, tự do hợp đồng không phải là sự tự do hoàn hảo, tự do vô giới hạn. Sự tự do này là sự tự do bị hạn chế. Không được giao kết hợp đồng bằng cách lừa đảo, đe dọa, không được giao kết hợp đồng để hạn chế hoạt động kinh doanh của các chủ thể khác cũng như của xã hội nói chung. Nhà nước với tư cách là tổ chức của quyền lực công có thể can thiệp vào quan hệ hợp đồng. Sự can thiệp này là một bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tế cuộc sống. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang tiến những bước dài trong quá trình hội nhập quốc tế, các giao dịch thương mại trong và ngoài nước không ngừng được xác lập, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện về hợp đồng nhằm đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam là yêu cầu khách quan, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải xây dựng những chính sách pháp luật mang tính chất định hướng, đúng đắn, mềm dẻo... để tạo hành lang pháp lý an toàn nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt.