Ca dao hài hước về chí làm trai
I. DÀN Ý 1. Mở bài:. - Xã hội phong kiến thường đề cao vai trò của nam nhi. - Một số câu ca dao châm biếm những người đàn ông có tật xấu như tham ăn, yếu đuối, nông nổi, hèn nhát, nhu nhược, bất tài... 2. Thân bài: - Câu 1: Phê phán thói lười biếng và tham ăn của chàng trai. Phân tích hình ảnh ước lệ một trăm đám cỗ và từ thậm xưng chẳng sai... - Câu 2: Giễu cợt một anh chàng ốm yếu, không có dáng gì là con trai. Phân tích cụm từ đặc tả khom lưng chống gối, sự tương phản giữa từ gánh và hai hạt vừng. - Câu 3: Khinh bỉ những kẻ nông nổi thích tỏ vẻ ta đây anh hùng nhưng thực chất lại hèn nhát, vô dụng. Phân tích cụm từ anh hùng rơm và cơn anh hùng để làm nổi bật yếu tố mỉa mai... - Câu 4: Giãi bày tâm trạng buồn bực của cô vợ về người chồng nhu nhược, bất tài. Phân tích cặp từ so sánh: chồng người với chồng em, đi ngược về xuôi với ngồi bếp sờ đuôi con mèo. 3. Kết bài: - Nhân dân ta luôn ước mơ và kì vọng vào những trang nam nhi tài đức vẹn toàn, là chỗ dựa vững chắc cho gia đình và xã hội. - Bút pháp trào lộng hóm hỉnh, đặc sắc nhằm mục đích phê phán, nhắc nhở mọi người hãy tránh xa những thói hư tật xấu trong cuộc sống. II. BÀI LÀM Trong ca dao - dân ca, bên cạnh mảng trữ tình phản ánh đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của người bình dân xưa là mảng trào phúng, hài hước với mục đích đả kích mặt trái của giai cấp thống trị và phê phán những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân. Bút pháp trữ tình và bút pháp trào lộng kết hợp chặt chẽ với nhau để thể hiện nội dung, tạo ra nụ cười tươi vui, hóm hỉnh, chứa đựng ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Chùm ca dao hài hước sau đây là một dẫn chứng tiêu biểu: 1. Làm trai cho đáng nên trai, Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. 2. Làm trai cho đáng sức trai, Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. 3. Anh hùng là anh hùng rơm, Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng. 4. Chồng người đi ngược về xuôi, Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Chùm ca dao hài hước châm biếm trên đây chế giễu những kẻ mang danh nam nhi mà mắc đủ các thói xấu như lười biếng, tham ăn, yếu đuối, bất tài vô dụng, hèn nhát hoặc vênh váo ra vẻ ta đây. Câu 1: Làm trai cho đáng nên trai, Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. Trong xã hội phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Bao nhiêu công việc nặng nhọc, khó khăn chỉ biết trông chờ vào sức vóc của người đàn ông. Mỗi khi chiến tranh xảy ra thì đương đầu với mũi tên hòn đạn cũng chính là các trang nam nhi khoẻ mạnh. Vì vậy, vai trò đàn ông được xã hội đề cao và khẳng định. Trong ca dao - dân ca có rất nhiều câu ca dao thể hiện rõ điều đó, ví dụ như: - Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng. - Làm trai cho đảng nên trai, Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên. - Làm trai quyết chí tang bồng, Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam. Bản thân chữ Làm trai đã bao hàm ý nghĩa khẳng định chí khí, bản lĩnh và sức mạnh của các đấng nam nhi đại trượng phu. Ở câu thứ nhất, tiếng cười châm biếm được tạo nên bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Trước hết, tác giả tạo nên sự đối lập (tương phản) giữa cái cao cả: Làm trai cho đáng nên trai với cái tầm thường: Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. Chàng trai trong câu ca dao không lo làm lụng mà chỉ trông chờ hưởng thụ. Hình ảnh một trăm đám cỗ là con số ước lệ mang ý nghĩa khái quát. Chẳng sai là chẳng quên, chẳng bỏ sót đám nào. Tác giả dân gian khéo léo dùng nghệ thuật phóng đại, cường điệu để tô đậm hiện tượng, châm biếm kẻ Làm trai sức dài vai rộng mà chỉ “giỏi” hơn người ở cái tài đi... ăn cỗ, chỉ có mỗi một việc là chăm chú đợi đến ngày được hàng xóm láng giềng mời ăn cỗ. Thật mỉa mai, đáng cười cho đấng mày râu có tư tưởng ăn bám, hưởng thụ, không thích lao động. Anh ta không phải là loại người mà gia đình và xã hội mong muốn. Câu 2: Làm trai cho đáng sức trai, Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. Nếu câu ca dao thứ nhất phê phán những kẻ siêng ăn, biếng làm thì câu ca dao thứ hai châm biếm một anh chàng có thể trạng yếu ớt, chẳng làm được việc gì ra hồn. Câu ca dao vẽ nên một bức chân dung thật hài hước và thú vị bằng nghệ thuật phóng đại kết hợp với thủ pháp đối lập. Người xưa thường ngợi ca sức trẻ, sức trai dời non lấp bể. Trẻ con hay hát bài đồng dao: Gánh gánh gồng gồng, gánh sông gánh chợ. Cao hơn nữa, phận sự của các trang nam nhi là gánh nợ nước non. Vậy mà ở đây chàng trai yếu ớt một cách bất thường. Trong cuộc đời, có thể có những chàng trai yếu đuối nhưng không ai lại yếu đến mức chỉ gánh nổi có... hai hạt vừng. Hài hước ở chỗ là anh ta phải khom lưng chống gối, có nghĩa là phải ráng hết sức mới có thể gánh được. Tiếng cười vang lên từ những chi tiết đối lập ngoài sức tưởng tượng như thế. Qua giọng điệu, ta có thể hiểu nội dung của câu ca dao theo hai nét nghĩa. Một là thể trạng ốm yếu của anh chàng là do cha mẹ sinh ra, nhưng anh ta không chịu rèn luyện để có được một thân thể cường tráng, khoẻ mạnh. Hai là chàng trai này quá lười biếng, nhu nhược, không có dũng khí trong cuộc sống, không dám gánh vác những trọng trách lớn lao trong gia đình và ngoài xã hội. Hạng đàn ông như vậy chỉ là gánh nặng cho mọi người mà thôi. Câu 3: Anh hùng là anh hùng rơm, Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng. Nhân dân lao động châm biếm, giễu cợt mạnh mẽ một hạng đàn ông khác trong xã hội. Đó là những kẻ nông nổi không có tài năng, dũng khí, nhưng lại hay khoe khoang, khoác lác, ra vẻ ta đây hơn người. Không biết thành ngữ anh hùng rơm có từ bao giờ nhưng ý nghĩa của nó thật hay, thật ấn tượng. Nó vẽ lên hình ảnh một kẻ tài năng thì tầm thường, có khi hèn nhát nữa, nhưng mở miệng thì toàn chuyện lớn lao trên trời dưới bể để loè thiên hạ. Nghệ thuật chơi chữ ở câu ca dao này khá độc đáo. Anh hùng rơm là thành ngữ dùng để chế giễu những kẻ không có can đảm, tài năng nhưng lại hay khệnh khạng, hung hăng, vênh váo. Kiểu câu định nghĩa: Anh hùng là anh hùng rơm, kết hợp với hình ảnh mồi lửa (rơm dễ cháy, ngọn lửa bốc lớn nhưng tắt rất nhanh) cùng cụm từ đặc biệt độc đáo và sáng tạo: Cơn anh hùng, tạo nên xâu chuỗi liên tưởng rất thú vị, từ đó bật ra tiếng cười trào lộng sảng khoái mà thâm thuý. Anh hùng thuộc về tính cách, bản chất của con người; còn cơn anh hùng thì lại hoàn toàn là bốc đồng trong chốc lát, giả tạo mà thôi. Không những không lừa được ai mà lại còn làm trò cười cho thiên hạ. Đối với hạng người này, ta chỉ cần giao cho một việc nhỏ trong hoàn cảnh có khó khăn, thử thách thì bản chất bất tài, hèn kém sẽ lộ ra ngay. Khác nào anh hùng bện bằng rơm, chỉ cần một mồi lửa nhỏ châm vào là cháy rụi thành tro bụi. Câu ca dao: Anh hùng là anh hùng rơm... như một lời mỉa mai, đay nghiến, dằn mặt những kẻ tự vỗ ngực xưng là anh hùng mà chẳng mảy may làm được việc gì cho xứng đáng. Cải bản chất rỗng tuếch của họ được tác giả dân gian mổ xẻ, phanh phui bằng một cụm từ ngộ nghĩnh là Cơn anh hùng. Quả thật không còn từ nào xác đáng hơn và khinh miệt hơn. Câu 4: Chồng người đi ngược về xuôi, Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Câu ca dao thứ tư này nói về tâm sự buồn bã, thất vọng và xấu hổ của người vợ có anh chồng lười nhác, hèn kém về mọi mặt. Cặp từ Chồng người... Chồng em như một cặp đối xứng chứa đựng ý nghĩa so sánh hơn thua. Chị vợ không muốn hạ thấp tài và chí của chồng mình vì như dân gian đã nói: Xấu chàng hổ ai?. Nhưng hiện thực khách quan thì không thể bao che, bênh vực. Người vợ buộc phải thốt ra lời than thở về sự thực rất đáng buồn. Đó là cảnh trái ngược giữa Chồng người và Chồng em, giữa hai thái cực đi ngược về xuôi, tung hoành ngang dọc, thoả chí tang bồng và quanh quanh quẩn quẩn hết ngày này sang ngày khác ngồi bếp sờ đuôi con mèo - một việc làm vô bổ, vô ích và đáng cười. Đó là hình ảnh của những ông chồng đoản chí, nhút nhát, chỉ dám ra vào bảy xó nhà ba xó bếp. Họ không đáng mặt nam nhi, không thể là chỗ dựa đáng tin cậy của vợ con và xã hội. Trong câu ca dao, hình ảnh người đàn ông hiện lên vừa hài hước vừa thảm hại. Tác giả dân gian đã thâu tóm đúng thần thái nhân vật trong một chi tiết thật đắt, có giá trị khái quát cao, tiêu biểu cho một loại đàn ông èo uột, lười nhác, ăn bám vợ. Chi tiết sờ đuôi con mèo vừa gây cười vừa hàm chứa ý nghĩa phê phán sâu xa: Anh chồng kia có khác gì con mèo lười nhác, trời rét chỉ quanh quẩn ở xó bếp để sưởi và... ăn vụng. Đó là loại đàn ông vô tích sự, không có phong độ của bậc nam nhi. Loại đàn ông này không ít trong xã hội và đã thành đối tượng châm biếm, chế giễu của ca dao: - Chồng người bể Sở sông Ngô, Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần. - Làm trai cho đáng nên trai, Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu. - Làm trai cho đáng nên trai, Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con. - Ăn no rồi lại nằm khoèo, Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem. Qua bốn câu ca dao hài hước đã phân tích ở trên, chúng ta thấy nhân dân lao động xưa kia luôn kì vọng vào những trang nam nhi có đức, có tài. Thái độ đối với những kẻ lười biếng, hèn nhát là chế giễu, cười cợt; tuy thế, tính giáo dục, xây dựng không kém phần sâu sắc. Tiếng cười trong từng câu ca dao có sức mạnh phê phán cái xấu, cổ vũ cái tốt, tôn vinh cái đẹp, mang lại cho người đọc không khí vui tươi, hồn nhiên nhưng vẫn không quên nhắc nhở nhau hãy tránh xa những thói hư tật xấu để con người ngày càng hoàn thiện hơn.
I - gợi dẫn1. Ca dao là nơi nhân dân gửi gắm tâm sự. Đó là niềm vui, nỗi buồn, là tự hào, là cay đắng của những kiếp người. Ca dao còn là nơi kết tụ tinh hoa trí tuệ của nhân dân. Khi thì chế giễu kẻ lười biếng, khi thì chê cười những kẻ khoác lác. Có khi thì chế giễu một cách hài hước thói mê tín dị đoan qua hình ảnh của những ông thầy cúng, thầy địa lí.Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.2. Chùm ca dao hài hước, châm biếm trong bài học thể hiện những tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội – thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh trong cuộc sống vất vả lo toan của người dân khi xưa.3. Cách đọcĐọc nhấn giọng ở một số từ ngữ, thể hiện nổi bật đối tượng và tính chất hài hước, châm biếm trong các bài ca dao. Ví dụ ở bài Bắc thang lên đến cung mây, nhấn giọng ở các từ và cụm từ “cung mây”, “ấp cây cả đời”, “Cuội cười” ; bài Làm trai cho đáng nên trai nhấn giọng ở “làm trai”, “nên trai”, “đám cỗ”, “chẳng sai đám nào”, bài Anh hùng là anh hùng rơm nhấn giọng ở các từ “anh hùng rơm”, “cơn anh hùng”. II - kiến thức cơ bản1. Về bài : Bắc thang lên đến cung mây,…Hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa được giải thích một cách bất ngờ. Khác với chú Cuội trong truyện Chú Cuội ngồi gốc cây đa đáng thương, ở bài ca dao này, chú Cuội đã được “lạ hoá”, mang ý nghĩa hài hước : “ấp cây cả đời” vì cái tật hay nói dối.Cái cười và lời đáp của Cuội cho thấy tính cách hài hước, láu lỉnh của nhân vật này đã trở thành yếu tố cố định trong tâm thức dân gian. Cuội biết rõ mình bị phạt vì tội hay nói dối và dường như không hề thấy buồn bực, ân hận gì nhiều lắm về điều này. Tiếng cười hài hước đi liền với hình ảnh so sánh có ý nghĩa phê phán : “nói dối như Cuội”.2. Về các bài :- Làm trai cho đáng nên trai,…- Làm trai cho đáng sức trai,…- Anh hùng là anh hùng rơm,…Quan niệm của nhân dân ta về “Làm trai cho đáng nên trai”, “Làm trai cho đáng sức trai” khác hẳn với quan niệm trong những bài ca dao này. Đó là quan niệm “làm trai”, “sức trai” không tách rời với sự khẳng định, tin tưởng vào bản lĩnh, sức mạnh, ý chí xông pha. Có thể so sánh quan niệm về “Làm trai cho đáng nên trai”, “Làm trai cho đáng sức trai” trong những bài ca dao trên với một số bài ca dao sau :- Làm trai cho đáng nên trai,Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng.- Làm trai cho đáng nên trai,Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.- Làm trai quyết chí tang bồng,Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.Như vậy, trong các bài ca dao hài hước trên, dân gian đã “nói ngược” với quan niệm tích cực thông thường để tạo ra tiếng cười châm biếm.Để tạo nên tiếng cười châm biếm, tác giả dân gian đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc :- Biện pháp đối lập (hay còn gọi là tương phản) : biện pháp này chính là cơ sở cho lối nói ngược đã nói đến ở trên.- Biện pháp ngoa dụ (hay còn gọi là phóng đại, nói quá), cường điệu quá mức bình thường những hiện tượng châm biếm tạo ra chân dung hài hước, tô đậm ý nghĩa tương phản, đối lập : làm trai chỉ “giỏi giang” trong chuyện “ăn cỗ”, “Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng”.- Biện pháp chơi chữ : sử dụng thành ngữ “anh hùng rơm” kết hợp với các từ ngữ “lửa”, “hết cơn anh hùng”, nhằm tạo ra tiếng cười châm biếm, phủ nhận thói anh hùng giả tạo, huênh hoang.Các biện pháp trên được tác giả dân gian sử dụng kết hợp với nhau tạo nên sắc thái mỉa mai, chế giễu nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại chứa đựng ý nghĩa phê phán sâu sắc đối với thói ham ăn, hoặc giả tạo, huênh hoang của những kẻ luôn tỏ ra “nam nhi đại trượng phu” không phải không phổ biến trong xã hội.3. Về bài : Chồng người đi ngược về xuôi,…Cùng với cảm hứng “Làm trai cho đáng nên trai…”, bài ca dao sau lại là lời than về thân phận hẩm hiu của người phụ nữ khi lấy phải chồng hèn. Người chồng trong bài ca dao này là người đàn ông “không đáng làm trai” :Chồng người đi ngược về xuôi,Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.Người phụ nữ bình dân vốn rất trân trọng tình cảm vợ chồng, vì thế ít khi họ cất tiếng chê chồng. Thậm chí còn luôn khẳng định :Chồng em áo rách em thương,Chồng người áo gấm xông hương mặc người.Song bài ca dao trên không hướng đến nội dung nói về tình vợ chồng, mà hướng đến mục đích châm biếm đả kích. Vì thế cách nói “chồng em” chỉ là một cái cớ, một cách mở đầu để làm đa dạng hoá hình thức của đề tài “Làm trai cho đáng nên trai” mà thôi.“Chồng em” được đặt trong thế so sánh với chồng người. Cũng là chồng, nghĩa là cùng là trai, nhưng trong khi những người đàn ông khác đi ngược về xuôi, làm những việc dời non lấp bể thì người đàn ông này lại “ngồi bếp” và làm một việc giống như một trò nghịch ngợm của trẻ con. Người ta đi bẫy hùm bắt hổ, còn “chồng em” thì “ngồi bếp” và “sờ đuôi con mèo”. Trong câu ca dao này, tác giả dân gian đã vận dụng triệt để biện pháp tu từ ngoa dụ để gây cười, để phê phán những người đàn ông hèn nhát, lười biếng.Gây cười bất ngờ bằng cách đặt đối tượng trong tình huống đối lập giữa “đi ngược về xuôi” với “ngồi bếp sờ đuôi con mèo”, bài ca dao đã tạo nên sức châm biếm rất mạnh mẽ, hóm hỉnh.4. Về bài : Lỗ mũi mười tám gánh lông,…Trong ca dao, khi nói về người phụ nữ, nhân dân lao động thường thể hiện thái độ trân trọng, cảm thông chia sẻ. Nhưng bài ca dao này lại khác, nói về người phụ nữ với một cách nói lạ, vui tươi dí dỏm : nửa như chê bai, nửa như cảm thông nhưng trước hết là tạo ra tiếng cười mua vui giải trí, châm biếm nhẹ nhàng.Bài ca dao được chia thành từng cặp câu thơ với cấu trúc song hành :Lỗ mũi mười tám gánh lông,Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.Đêm nằm thì ngáy o o…Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.Mỗi câu 6 miêu tả một đặc điểm “đáng yêu” của người phụ nữ, ứng với một câu 8 thể hiện sự “chia sẻ” của người chồng. Theo nhịp độ tăng tiến, tiếng cười cất lên thật sảng khoái :Trên đầu những rác cùng rơm,Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.Bằng cấu trúc lặp sóng đôi, bút pháp phóng đại và trí tưởng tượng phong phú, tác giả dân gian thể hiện cái nhìn nhân hậu và lời châm biếm nhẹ nhàng đối với những người phụ nữ vô duyên, luộm thuộm, hay ăn quà vặt.Thực ra trên đời không thể có một người phụ nữ nào có những đặc điểm “trời phú” cho như vậy. Cũng không thể có người chồng “độ lượng” nào có thể bao dung hết tất cả những điều vô tâm như thế. Cười để để ngẫm ngợi cười để khuyên răn – đó là tiếng cười tình nghĩa của dân gian Việt Nam.5. Về bài : Bao giờ cho đến tháng ba,…Hàng loạt các hiện tượng phi lí, ngược đời, không thể có và không thể xảy ra trong thực tế xuất hiện trong bài ca dao : ếch cắn cổ rắn, lợn liếm lông hùm, quả hồng nuốt lão tám mươi, nắm xôi nuốt trẻ,… và nhiều hiện tượng không gắn với tháng ba hoặc nếu có xảy ra thì không cứ là phải trong tháng ba (Nắm xôi nuốt trẻ lên mười – Con gà, be rượu nuốt người lao đao). Như vậy, tác giả dân gian đã sử dụng cách nói ngược.Cách nói ngược nêu ra những hiện tượng phi lí, ngược đời có thể có những ý nghĩa sau :- “Lạ hoá” cái thông thường, tạo ra cái nghịch dị để bật lên tiếng cười, sự hài hước nhằm mua vui, giải trí ;- Nhằm chế giễu, mỉa mai những hiện tượng ngược đời, đảo lộn quy luật, trái với lẽ thường trong đời sống xã hội ;- Có thể qua những hiện tượng ngược đời để thể hiện khát vọng về sự đổi thay táo bạo, phá vỡ những ràng buộc cố hữu vốn được xem là chính thống, ngự trị, nhất là trong xã hội phong kiến hà khắc,…6. Về bài : Cưới nàng anh toan dẫn voi,…Lạc quan là một trong những phẩm chất đẹp đẽ của người dân lao động, nhờ tinh thần lạc quan mà họ có thể vượt lên mọi nỗi vất vả để sống, để cảm thông. Trong những lúc tuyệt vọng nhất, nhân dân vẫn khuyên nhau :Chớ than phận khó ai ơi,Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.Và cũng để thể hiện niềm lạc quan ấy, để cất đi những gánh nặng của lo toan và dẹp đi nỗi tủi hờn của cảnh nghèo, họ đã cất lên tiếng cười vui. Một câu chuyện dẫn cưới trong một cuộc đối đáp vui đùa mà sao nghĩa tình đến thế. Cưới nàng anh toan dẫn voi,……Để cho con lợn, con gà nó ăn…Chuyện dẫn cưới là chuyện vui. Câu chuyện vui mà buồn nhưng buồn mà lại vui. Buồn vì chuyện dẫn cưới sao nhiều điều phải suy nghĩ thế. Đó là lẽ thường của người dân nghèo. Nhiều đôi trai gái vì món đồ dẫn cưới quá nặng mà phải đứt gánh giữa đường. Nhưng vui vì câu chuyện dẫn cưới đã được giải quyết một cách rất thông minh. Nó lại trở thành một câu chuyện vui. Chàng trai là chủ thể của phát ngôn thứ nhất, nói về chuyện dẫn cưới của mình :Cưới nàng anh toan dẫn voi,Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.Dẫn trâu, sợ máu họ hàn,Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.Sự thật là lễ dẫn cưới đầy đủ theo lệ làng là quá sức đối với anh. Nhưng chàng trai ấy lại rất tự tin và thông minh, anh đưa ra những lí lẽ thật thuyết phục. Vừa giải thích cho lễ dẫn cưới khiêm tốn của mình, vừa thể hiện được anh là người biết quan tâm đến mọi người. Song điều quan trọng hơn là anh đã thể hiện được thái độ trân trọng đối với cô gái. Tất cả những thứ “anh toan dẫn cưới” đều rất lớn. Và anh biết “Cưới nàng…” anh muốn có một lễ cưới xứng đáng. Anh đưa ra những lễ vật ấy để thể hiện sự trân trọng của anh đối với cô gái. Vui, hóm hỉnh và thật kín đáo, người dân lao động đã khôn ngoan khi mượn câu chuyện dẫn cưới vui vẻ ấy để thể hiện sự cảm thông chia sẻ của những người cùng cảnh nghèo.Lễ cưới tuy nhỏ song vẫn đủ đầy :Miễn là có thú bốn chân,Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.Lời nói vui mà ẩn chứa những ý nghĩa sâu xa. Dẫn cưới bằng con chuột không có nghĩa là coi thường người con gái, anh đã đưa ra đủ lí do rồi.Đáp lại tấm lòng của chàng trai chân thành ấy, lời của cô gái đầy cảm thông, chia sẻ :Chàng dẫn thế, em lấy làm sang.Nỡ nào em lại phá ngang như là…Trân trọng biết bao lời đối đáp của người con gái. Họ cùng cảnh lao động nghèo nên họ hiểu và cảm thông cho nhau. Họ đến với nhau bằng nghĩa tình.Người ta thách lợn thách gà,Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.Một lời thách cưới thật bình dân. Thách như thế khôngcó nghĩa là cô không tôn trọng lệ làng. Lời đáp của người con gái thể hiện sự cảm thông, thể hiện tấm lòng và nghĩa tình sâu nặng của cô đối với chàng trai.Dưới hình thức lời đối đáp vui đùa của thanh niên nam nữ trong những giờ phút nghỉ ngơi, bài ca dao đã thể hiện những quan điểm nhân sinh rất đẹp đẽ. Là tiếng cười tự trào nhưng bài ca dao đã thể hiện quan điểm của người bình dân về hôn nhân, một quan điểm rất tiến bộ. Hôn nhân trên cơ sở cảm thông, trân trọng tình cảm giữa con người đối với con người hơn là tiền bạc vật chất.Để vượt qua những vất vả tủi cực của cuộc sống nghèo, người dân lao động đã cất lên tiếng hát, tiếng cười. Và đó là tiếng hát tiếng cười đầy nghĩa tình.III - Liên hệ Đọc một số bài ca dao phê phán tệ nạn tảo hôn, phê phán thầy bói, thầy cúng, thầy phù thuỷ trong xã hội :1. Bồng bồng cõng chồng đi chơi,Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng. Chị em ơi cho tôi mượn chiếc gầu sòng,Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên. 2. Quả cau nho nhỏCái vỏ vân vânNay anh học gầnMai anh học xaLấy anh từ thủa mười baĐến năm mười tám em đà năm con. 3. Chập chập thôi lại cheng cheng, Con gà trống thiến để riêng cho thầy. Đơm xôi thì đơm cho đầy,Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng. 4. Số cô không giàu thì nghèo,Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà. Số cô có mẹ có cha,Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng,Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. 5. Tiền buộc giải yếm bo bo,Trao cho thầy bói, đâm lo vào mình. |