Đức tính đẹp nhất của người phụ nữ là gì

Lo Nam, lo Bắc việc mình không lo”

và những mẹ Đốp luôn luôn sẵn sàng tấn công bọn hào lý ở khắp nơi, cho đến những Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Chiêm, Út Tịch và mẹ Suốt ngày nay – hàng trăm thế hệ phụ nữ đã truyền đi và nhân lên những thuộc tính đặc sắc của người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam.

“Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”.

Câu hát cổ trên cũng là một hình thức ghi nhớ của nhân dân đối với tiết bao người vợ đảm xưa đã góp vào cuộc chiến chung, và không têm trầu “cánh phượng” nữa, mà têm trầu “cánh kiếm”, nô nức, hồ hởi tiễn đưa người thân của mình ra đi. Đó là những con người có một lòng yêu nước rộng lớnmột tinh thần lo toan rất tích cực đến việc chung. Đó là con người sẵn sàng chịu đựng với một sức bền kỳ diệu những gay go gian khổ, những hy sinh to lớn nhất. Đó là những con người bất khuất, không sức mạnh thống trị nào có thể đè bẹp nổi, những con người rất mực kiên cường, không sức mạnh xâm lược nào có thể bẻ gãy được.

Đấy là những chiến sĩ dũng cảm. Và chúng ta hiểu rằng, đối với người phụ nữ Việt Nam, đấy là phẩm chất của những người chiến sĩ có sức mạnh sở trường ở phương diện tinh thần, tình cảm. Trong hoàn cảnh khó khăn gò bó thường xuyên, khả năng vât chất và kỹ thuật của những chiến ở đây không nhiều. Nhưng những cơ sở và điều kiện để tạo ra những khả năng đó, lúc nào cũng có. Đó là những phẩm chất của người lao động và người nội trợ ở trong con người phụ nữ Việt Nam. Khi cần thiết, chỉ cần thời gian, sự tổ chức và tập hợp. Và đấy là điều đặc sắc, thuân lợi và may mắn cho người phụ nữ và cho dân tộc: lúc nào cũng có con người chiến sĩ với những phẩm chất rất tốt nằm trong những người phụ nữ Việt Nam.

Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - những con người ấy cùng với những thuộc tính, phẩm chất tinh thần của nó đã hợp thành tính cách cơ bản của người phụ nữ Việt-nam. Ở một tính cách đa dạng và phong phú như thế, có thể lọc ra, tìm lấy điều gì chung nhất, điều gì bao trùm, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt-nam?

Trong những lúc vận nước gặp cơn sóng gió, con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam vụt trội lên. Hiện nay, đây là điều đang thu hút sự chăm chú của nhiều người. Nhưng hãy tìm đọc cuốn sổ tay tác chiến của đại đội trưởng pháo bờ biển nữ dân quân xã N. (Quảng Bình), chi tiết kỹ thuật và tình hình chiến sĩ với vũ khí, khí tài, tự nhiên có những dòng rõ ràng không đúng điều lệnh quân sự: “Nếu nạp lên, trên không nhận, sẽ cho giữ vỏ đạn lại, chờ đánh xong giặc Mỹ, sẽ đem đúc nồi đồng”! Con người lao động và nội trợ trong người chiến sĩ Ngô Thị The ấy đang để lộ tính cách cơ bản của mình. Và hình ảnh quen thuộc, gần gũi về vị Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Nguyễn Thị Định, cũng là hình ảnh một người mẹ, một người chị, ngồi trên chiếc võng đã chiến, kim chỉ và chiếc áo trong tay, trìu mến nhìn và chăm chú nghe chiến sĩ. Đấy chính là một phụ nữ:

“Lúc tiến lệnh đều trăm đội ngũ,

Đêm về ngồi vá áo chiến binh!”[1]

Như thế, con người lao động và con người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình ảnh thường hằng về họ, Con người chiến sĩ, lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn vào con người lao động và nội trợ, có khi ngay cả vào dịp đang xuất hiện rõ rệt nhất, nó cũng mang cốt cách của hai con người kia. Người phụ nữ nông dân Cao Thị Thả ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá), chèo thuyền xông ra biển dưới bom đạn của máy bay Mỹ, diệt cả bọn giặc lái nhảy dù lẫn máy bay đậu trên nước và máy bay lên thẳng của giặc, nhưng vẫn nói rất đúng: “Phải nói công bằng rằng không có thằng giặc Mỹ thì đàn bà chúng tôi mới không phải cầm đến khẩu súng này”. Và bà mẹ Suốt, lập nên kỳ tích trong phục vụ chiến đấu: hàng chục, hàng trăm lần chèo thuyền đưa cán bộ, bộ đội vượt sông trước mưa bom bão đạn, khi được nhà thơ Tố Hữu thán phục hỏi: “Gan chi gan rứa mẹ nờ?”, vẫn chỉ coi trận chiến đấu của mình như là những lần làm ăn bình thường của ông lão ở nhà: “Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!”.

Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt-nam đã được tìm thấy ở trong những trường hợp đó. Đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm. Chính những điều đó đã làm cho người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỉ mỉ, nhẫn nại, dẻo dai, căn cơ, tần tiện, chịu khổ, chịu khó mà lao động đảm đang. Bản thân người phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu hưởng thụ gì to tát, nhưng chính là vì chồng con, họ hàng rồi xóm làng, rồi là vì đất nước, vì tình thương yêu tất cả mà họ đã lao động. Cũng chính là với tấm lòng trung hậu, với tình thương yêu mênh mông đối với người thân của mình, rồi với đồng bào chân chính của mình mà người phụ nữ đã thuỷ chung hy sinh, quán xuyến, trong khi làm nghĩa vụ nội trợ. Và cũng chính là vì tấm lòng nhân ái bao trùm mà người phụ nữ đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng chịu đựng và hy sinh oanh liệt.

Khi nhà thơ Chế Lan Viên hỏi một nữ anh hùng: “Vì sao em chiến đấu?” thì thật cảm động là câu trả lời: “Em thương. Em thương các anh quá, nên em liều. Em thấy máu đổ là em thương...”. Cũng thế, hỏi cô Cam Thị Thưng vì sao 17 tuổi, với người bé nhỏ nhưng đã vượt qua bom đạn, cõng bổng được một đồng chí bộ đội bị thương về nơi cứu chữa an toàn; chúng ta cũng được nghe câu trả lời của cô qua nụ cười ngượng nghịu: “Em nghĩ thương các anh mà cõng thấy nhẹ...”. Trái tim nhân ái của phụ nữ Việt Nam là một trái tim lớn. Trái tim đó mang nặng tình thương yêu chính nghĩa nên có lòng căm giận kẻ thù bất nhân mà chiến đấu. “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” - Nguyễn Đình Chiểu xưa đã phát hiện và khẳng định đặc điểm tâm lý ấy của Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam.

Lòng nhân ái có thể xem như là hạt nhân cơ bản trong tính cách người phụ nữ Việt Nam. Lòng nhân ái đó lớn mênh mông trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh của dân tộc, làm nền cho những phẩm chất tinh thần phong phú, đặc sắc, những khả năng và vai trò thực tế to lớn của họ.

Chúng ta cũng biết rằng sức mạnh và vẻ đẹp Việt Nam, xưa và nay, cũng có nguồn gốc từ lòng nhân ái. Từ Hùng Vương, Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh, tinh thần ấy là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Phải chăng, tinh thần ấy chính là từ người phụ nữ Việt Nam mà truyền đi và được nhân lên gấp bội? Bởi vì ở đây, hơn ở đâu hết, có vai trò của những người mẹ Việt Nam, những người mẹ xứng đáng với lời biểu dương của Hồ Chủ tịch: “Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh ra và nuôi dạy nên những thế hệ anh hùng của nước ta”[2].

B.Những phẩm chất tiêu cực

Chế độ phong kiến cùng với lễ giáo Khổng Mạnh và chế độ tôn pháp không những đã áp bức, bóc lột, gò bó, kìm hãm phụ nữ mà còn là chế độ coi khinh và làm nhục phụ nữ. Chính vì thế từ cuối thế kỷ XV trở đi đã dấy lên phòng trào phản kháng của phụ nữ chống phong kiến với một tư thế dũng cảm, ý chí quyết liệt và hành động tích cực.

Để đáp lại thuyết “nam tôn nữ ty” phong kiến là những lời lẽ trào động dân gian:

“Ba đồng một mớ đàn ông,

Đem bỏ vao lồng cho kiến nó tha.

Ba trăm một mụ đàn bà.

Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi!”

Phản bác lại mệnh lệnh “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” là câu ví sắc sảo:

“Một trăm con trai không bằng lỗ tai con gái”

Cự tuyệt lời dụ dỗ đường mật của bọn quyền quý:

“Ăn góc quả hồng, ăn cạnh quả hồng

Còn hơn ăn cả chùm sung chát sì”

là lời tuyên bố dứt khoát và thông minh:

“Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng!”

Trả lời câu quyết rũ xỏ xiên:

“Một đêm quân tử nằm kề,

Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm”

là thái độ dửng dưng mà đằm thắm tuyệt đẹp:

“Chồng ta áo rách ta thương,

Chồng người áo gấm xông hương mặc người!”

Đó là sự phản ánh hành động phản kháng quyết liệt chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến của những phụ nữ đương thời. Tuy nhiên, do trải qua hàng nghìn năm thống trị của chế độ phong kiến cũng đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với người phụ nữ.

Trong hàng nghìn năm bị gạt ra khỏi cuộc sống xã hội, mặc dầu cố vươn lên như bông sen, lá súng ngoi khỏi bùn nước để trổ ra với trời mây, nhưng mất địa vị tương xướng với vai trò của mình, bị cả một chế độ với những áp lực nặng nề bao vây, lại thêm ảnh hưởng dai dẳng của mấy chữ “tòng”, chữ “hiếu”, trong những con người phụ nữ xưa, dần dần cũng tồn tại tư tưởng an phận, tự ti, thái độ cam chịuthụ động. Hạt mưa, tấm lụa là hình ảnh người phụ nữ xưa thường so sánh với thân phận của mình:

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.

“Thân gái như hạt mưa sa

Hạt rơi gác tía, hạt ra ngoài đồng!”

Cuộc sống tù túng chật hẹp trong các gia đình, hằng ngày phải va chạm với nhiều việc không tên: thu vén từng cọng rơm cái rác để đun một nồi cơm nhỏ, nuối lấy vài ba con gà nhưng chẳng may lại có một con… bị mất, người phụ nữ xưa có phần bị bó lại trong những tính toán thiển cận, thái độ hẹp hòi, nhiều khi bị đắm đuối vào ngay những xích mích nông nổi, vụn vặt giữa những người cùng giới và cùng chung cảnh ngộ với nhau. Có khá nhiều trường hợp người phụ nữ phải mất hầu trọn tâm tư và tài trí của mình vào giải quyết mối quan hệ vợ cả vợ lẽ, mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng,… trong khuôn khổ chật hẹp của các gia đình xưa.

“Em chồng ở với chị dâu,

Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày!”

“Chị em dâu như bàu nước lã”.

Cũng vì bị cấm cửa đối với xã hội, không được học hành, lại bị vây hãm trong một chế độ trì trệ, các thế hệ phụ nữ giữa “đêm trường trung cổ” không thể nào mở mang trí tuệ, nên nhiều khi suy nghĩ và hành động lúng túng trong bóng tối của mê tín dị đoan, sự hiểu biết nhiều khi nông cạn, thiếu hẳn ánh sách của văn hóa khoa học. Đây là một điều thực tế đã hạn chế rất nhiều khả năng cống hiến cua họ và đã góp phần đắc lực vào việc kìm hãm, áp bức họ.

Kết luận

Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - đấy là hình ảnh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Và đấy là những truyền thống đã hình thành ổn định trong suốt quá trình lịch sử lâu dài. Những người phụ nữ Việt Nam hiện đại mang trong mình truyền thống đó và ngày càng tự giác phát huy truyền thống đó trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Khẳng định điều này, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt-nam đã tặng danh hiệu “Dũng cảm, đảm đang chống Mỹ cứu nước” cho thế hệ phụ nữ Việt-nam hiện đại. Và Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã tuyên dương danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” cho phụ nữ toàn miền Nam.

Trong thời đại phát triển hiện nay, chính những phẩm chất tinh thần ấy đã tạo ra một sức mạnh mới cho người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh xây dựng đất nước. Phụ nữ Pháp đã nói với phụ nữ Việt Nam: “Cảm ơn gương sáng của các bạn đã làm cho danh từ “phẩm chất” giữ được trọn vẹn ý nghĩa thực sự của nó”[3]. Phụ nữ Lào cũng đã nhận xét: “Những thành tích to lớn và vẻ vang của chi em phụ nữ Việt Nam là một tấm gương quí báu và sự cổ vũ to lớn, động viên phụ nữ chúng tôi quyết tâm, dũng cảm trong đấu tranh vì sự tiến bộ của mình”[4]

Những ý kiến trên đây là xuất phát từ sự nhận thức của các bạn quốc tế về phẩm chất tinh thần truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Mọi người đều biết rõ: về nhiều mặt, phụ nữ Việt Nam còn đang gặp những khó khăn trở ngại, còn đang có những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Nhưng chính là, với những phẩm chất tinh thần đặc sắc của mình, phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ thế giới ca ngợi, đã được xem như một trong những hình tượng đẹp đẽ và trong sáng và thế giới cách mạng.

Với tinh thần dân tộc và ý thức độc lập tự chủ mạnh mẽ, với bản sắc dân tộc đậm đà, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp thực sự to lớn trong suốt tiến trình lịch sử xã hội Việt Nam đối với sợ phát triển dân tộc Việt Nam đã quy định đặc thù của người phụ nữ Việt Nam. Đó là những yếu tố rất cơ bản, những yếu tố cội nguồn để phụ nữ Việt Nam cùng với cả dân tộc mình khắc phục những nhược điểm và khó khăn, phát huy những ưu điểm và thuận lợi, nhằm đẩy mạnh đổi mới đất nước, tăng cường khả năng để không những hòa nhập mà còn đóng góp vào sự tiến bộ của thế giới ở thế kỷ XXI.




(*) Nhà nghiên cứu Nhân học Xã hội, Giám đốc sáng lập Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED)

[1] Lưu Trong Lư: Người con gái Sông Gianh.

[2] Lời Hồ Chủ Tịch, tháng 10 - 1966

[3] Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Pháp gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam, ngày 18 – 2 – 1969.

[4] Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Lào gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam, ngày 20 – 7 –1967.

Hiếu thuận với cha mẹ

Người xưa dạy rằng: “Bách thiện hiếu vi tiên”, trăm điều thiện chữ hiếu đứng đầu. Con quạ còn biết nuôi mẹ đền ơn, con dê bú sữa còn biết quỳ. Một người bất hiếu với đấng sinh thành, ắt chẳng thể yêu thương và thấu hiểu người khác. Người phụ nữ hiếu thuận không chỉ hiếu kính với cha mẹ đẻ của mình, mà còn biết yêu thương, chăm sóc cha mẹ chồng. Bởi lẽ họ hiểu rằng cha mẹ chồng khó nhọc vất vả cả một đời, mới nuôi dạy được người tri kỷ của mình ngày nay.

Cha mẹ trong gia đình giống như phần rễ của cây. Muốn cây xanh lá, trĩu quả thì nhất định phải chăm sóc, bón phân, tưới nước và làm đất. Vì vậy, người phụ nữ hiếu thảo sẽ đối xử và phụng dưỡng tốt cha mẹ chồng, khiến gia đình vững chãi, hưng thịnh. Nhờ vậy bản thân họ cũng được mọi người trong gia đình, trên dưới, trong ngoài yêu mến, quý trọng.

Họ cũng đặc biệt biết đặt mình vào vị trí của mẹ chồng mà suy xét, từ đó nhường nhịn và bao dung, hóa giải mâu thuẫn, bất hòa với mẹ chồng. Nhờ đó gia đình mới trở nên hài hòa, yên ấm.

Mạnh Tử giảng rằng: “Con người ai nấy đều kính mến song thân của mình, tôn trọng bậc trưởng bối của mình, vậy thì thiên hạ sẽ có thể thái bình.” Cảnh thái bình của thiên hạ không thể thiếu phần của người phụ nữ.

Giàu lòng biết ơn

Nếu nhận được những điều tốt đẹp từ người khác nhưng trong lòng không biết cảm kích, không biết hàm ơn, mà còn cho rằng đó là điều đương nhiên, là lẽ thường tình, là nghĩa vụ của người khác, thì ắt sẽ khiến người khác ghét bỏ và dần xa lánh. Người biết cảm ơn là sống có tình có nghĩa, có trước có sau. Họ thường nghĩ tới người khác trước khi nghĩ đến mình, chính là người nhân đức, được người đời ngưỡng mộ.

Người phụ nữ giàu lòng biết ơn sẽ rất có trách nhiệm, tự tôn, tự lập, theo đuổi một cảnh giới nhân sinh rực rỡ ánh hào quang. Họ sẽ biến lòng cảm ơn thành hành động thực tiễn đầy yêu thương trong cuộc sống. Họ nhận được sự yêu mến và tôn kính của người khác, đồng thời cũng gợi cảm hứng tích cực về cách hành xử và trí tuệ trong cuộc sống của mình.

Cổ nhân có câu: “Làm điều tốt không cần suy tính, mang ơn người đừng bao giờ quên”, cũng có câu: “Mang ơn một giọt, báo ơn một dòng.” Người phụ nữ giàu lòng biết ơn đi tới đâu cũng được mọi người chào đón và nâng đỡ.