Illocutionary là gì
HÀNH ĐỘNG LỜI NÓI LÀ GÌ? (WHAT IS A SPEECH ACT?) Theo từ điển Longman về Giảng Dạy Ngôn Ngữ & Ngôn Ngữ Học Ứng Dụng [tr.342] thì hành động lời nói là: ‘một phát ngôn với tư cách là một đơn vị có chức năng trong giao tiếp. Theo lý thuyết hành động lời nói, phát ngôn có hai loại nghĩa (an UTTERANCE as a functional unit in communication. In speech act theory, utterances have two kinds of meaning): a. Nghĩa mệnh đề (còn được biết là nghĩa tạo lời). Đây là nghĩa đen cơ bản của một phát ngôn được chuyển bởi các từ và cấu trúc cụ thể mà phát ngôn chứa đựng (propositional meaning (also known as locutionary meaning). This is the basic literal meaning of the utterance which is conveyed by the particular words and structures which the utterance contains). b. Nghĩa tại lời (còn được biết là lực tại lời). Đây là tác hiệu lực mà một phát ngôn hay một văn bản viết tạo ra đối với người đọc hay người nghe. Ví dụ trong phát ngôn ‘Tôi khát nước’ nghĩa mệnh đề của phát ngôn nói đến trạng thái sinh lý của người nói. Lực tại lời là một hiệu lực của người nói muốn phát ngôn tạo ra đối với người nghe. Nó có thể có ý định như là một lời thỉnh cầu kiếm cái gì đó để uống. Hành động lời nói là một câu hoặc phát ngôn mà vừa có nghĩa mệnh đề vừa có lực tại lời. (illocutionary meaning (also known as illocutionary force). This is the effect the utterance or written text has on the reader or listener. For example, in ‘I am thirsty’ the propositional meaning is what the utterance says about the speaker’s physical state. The illocutionary force is the effect the speaker wants the utterance to have on the listener . It may be intended as a request for something to drink. A speech act is a sentence or utterance which has both propositional meaning and illocutionary force) Có nhiều loại hành động lời nói khác nhau như thỉnh cầu, ra lệnh, sai khiến, than phiền, hứa hẹn (there are many kinds of speech acts, such as requests, oders, commands, complaints, promises). Một hành động lời nói mà được thực hiện một cách gián tiếp đôi lúc còn được biết là hành động lời nói gián tiếp như hành động lời nói thỉnh cầu nêu trên. Các hành động lời nói gián tiếp thường được xem là cách thức thực hiện lịch sự hơn về hành động lời nói như thỉnh cầu và từ chối (a speech act which is performed indirectly is sometimes known as an indirect speech, such as the speech act of requesting above. Indirect speech acts are often felt to be more polite ways of performing certain kinds of speech act, such as requests and refusals). Trong giảng dạy ngôn ngữ, và soạn giáo trình, các hành động lời nói thường được xem như là ‘các chức năng’ hoặc ‘các chức năng ngôn ngữ (in language teaching, and SYLLABUS design, speech acts are often referred to as ‘functions’ or ‘language functions’). Đà thành, 10/11/16 Nguyễn Phước Vĩnh Cố #linguistics Quảng Cáo Bạn thấy bài viết thế nào? I. PHƯƠNG DIỆN CHỨC NĂNG LIÊN NHÂN CỦA VÃN BẢN LUẬT PHÁP TIẾNG VIỆT 1.1. Động từ ngữ vi và câu ngữ vi - phương tiện ngôn ngữ quan trọng góp phần tạo tính hành thực cho văn bản luật pháp 1.1.1. Giới thiệu Như ở chương 1 đã nêu, để hoàn thành các mục đích giao tiếp do chức năng của nó quy định, văn bản luật pháp phải mang bản chất của một hành vi ngôn ngữ (speech act). Điều đó có nghĩa là để điều tiết các mối quan hệ xã hội, nó phải quy định quyền và nghĩa vụ, hay bắt buộc hoặc cho phép các đối tượng mà nó điều tiết làm, được làm hoặc không được làm những gì. Như vậy có thể nói về thực chất, văn bản luật pháp là loại văn bản mang tính hành thực (performativity - thuật ngữ của Maley 1994). Một trong những phương tiện quan trọng nhất đem lại cho văn bản luật pháp, xét về mặt ngôn ngữ học, tính hành thực nói trên là động từ ngữ vi (performative verb) và câu ngữ vi. Trước khi xem xét cơ chế hoạt động của chúng trong văn bản, ta sẽ điểm qua một số khái niệm cơ bản liên quan. Đó là "động từ ngữ vi" (performative verb), "hành vi ngôn trung" (illocutionary act), "lực ngôn trung" (illocutionary force). Austin (1962) quan niệm rằng bất cứ một hành động nói năng nào cũng có ba hành vi liên quan là : 1) hành vi tạo ngôn (locutionarv act), 2 ) hành vi ngôn trung (illocutionary act) và 3) hành vi xuyên ngôn (perlocutionary act). Hành vi tạo ngôn là hành động nói một cái gì đó có V nghĩa, hay tạo ra nội dung mệnh đề. Hành vi ngôn trung là hành vi được thực hiện bằng lời nói khi người ta nói, vì nói là thực hiện một hành động nào đó như: hỏi, trả lời, ra lệnh, tuyên bố, yêu cầu, khuyên nhủ v.v. Khi nói người ta nhằm hoàn thành một mục đích giao tiếp nhất định qua phát ngôn của mình. Việc đó được thực hiện 48 qua lực ngôn trung (illocutionary force). Hành vi xuyên ngôn là khía cạnh thứ 3 của hành động nói năng. Khi nói ta cũng nhằm gây ra một hiệu quả nào đó vạ việc tạo ra một hiệu quả qua lời nói như vậy được gọi là hành vi xuyên ngôn. Ví dụ : Khi một người nào đó nói: "Lát nữa tôi sè gặp anh" thì ngoài nội dung mệnh đề được tạo ra bởi hành vi tạo ngôn trên, tuỳ ngữ cảnh giao tiếp người nghe còn biết rằng có thể đây là một đề nghị (Tôi đề nghị là lát nưã tôi sẽ gặp anh), hay một lời hứa (Tôi hứa là lát nữa tôi sẽ gặp anh) (hành vi ngôn trung). Tuỳ trường hợp người nghe có thể vui mừng chờ đón (lời hứa) hoặc hồi hộp lo âu (lời đề nghị). Hiệu quả tạo ra bằng lời nói như vậy được gọi là tác động xuyên ngôn (perlocutionary effect) và hành vi gây ra tác động này là hặnh vi xuyên ngôn (perlocutionary act). Như vậy cùng một nội dung mệnh để có thể chứa những lực ngôn trung khác nhau được thực hiện qua các hành vi ngôn trung tương ứng và tạo ra các hiệu quả xuyên ngôn khác nhau. Các động từ "đề nghị", "hứa" ở ví dụ trên làm hiển minh các hành vi ngôn trung tương ứng được gọi là các động từ ngữ vi (performative verb). Như vậy động từ ngữ vi được hiểu là một phương tiện ngôn ngữ làm tường minh một hành động ngôn trung nào đó. Ví dụ, khi nói "tôi hứa" người nghe hiểu rằng người nói đã thực hiện hành động hứa hẹn. Các phát ngôn như vậy được gọi là câu ngữ vi. Austin (1962) đã chia các hành vi ngôn trung thành 5 loại và sau này Searle (1969) điều chỉnh lại lại thành 5 loại như sau : 1) Khẳng định (assertive): khẳng định, tường thuật, miêu tả, thông báo, giải thích... 2) Khuyến lệnh (directive): mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cáu, dê nghị, cho phép... 49 3) Cam kết (commissive): cam đoan, thề, hứa, cho, tặng ... 4) Biểu lộ (expressive): xin lỗi, chúc mìùĩg, tán thưởng, cảm ơn, mong muốn, biểu lộ tình cảm .... 5) Tuyên bố (declaration): tuyên bố, kết tội, từ chức, khai trừ... Sau này Searle (1979) tổng kết 5 chức năng chung của ngữ vi với các đạc điểm chủ chốt của chúng như sau : Hướng của khớp ghép giữa từ ngữ với thực tại Tuyên bố Từ ngữ làm thay đổi thực tại s = người nói X = tình huống s gây ra X Biểu hiện Làm từ ngữ khớp ghép với thực tại s tin là X Biểu lộ Làm từ ngữ khớp ghép với thực tại s cảm nhận X Khuyến lệnh Làm từ ngữ khớp ghép với thực tại s muốn X Cam kết Làm từ ngữ khớp ghép với thực tại s định X Loại ngữ vi Bảng 4 : Đặc điểm của các loại ngữ vi (Nguồn: Yule 1996) Để một hành vi ngôn ngữ được thực hiện như đã định theo Austin (1962) cần phải có một số điều kiện được gọi là điều kiện thuận lợi (felicity conditions). Đó là điều kiện chung (general conditions) cho người tham gia giao tiếp quy định họ phải hiểu ngôn ngữ đang sử dụng, họ không đóng kịch hoặc nói chơi. Tiếp đến là điều kiện nội dung (content conditions) quy định các điều cần thiết cụ thể cho việc thực hiện hành vi ngồn ngữ (như một lời hứa thì nội dung phát ngôn phải là về một sự kiện tương lai chứ không thể quá khứ). Theo Searle (1969) nên chia các điều kiện thuận lợi thành 3 loại chính là điều kiện ban đầu (preparatory conditions), điểu kiện chân thực (sincerity 50 conditions) và điều kiện thiết yếu (essential conditions). Yule (1996) cũng tán thành cách chia này và trình bày lại các ý kiến của Searle một cách ngắn gọn như sau: Điều kiện ban đầu quy định những gì liên quan đến sự cần thiết để hành động ngôn ngữ được thực hiện (như mệnh lệnh thì người phát ngôn phải ở vị thế cao hơn, có quyền đủ để buộc người nghe thực hiện việc trong mệnh lệnh). Điều kiện chân thực là điều kiện quy định người nói phải chân thành trong nội dung phát ngôn: hứa thì thực sự có ý định thực hiện điều hứa, ra lệnh thì thực sự tin là mình có quyền ra lệnh và người nói sẽ chấp hành. Điều kiện thiết yếu quy định trách nhiệm và sự ràng buộc của người nói. Ví dụ khi hứa hẹn bằng lời, người nói đã gắn vào mình trầch nhiệm thực hiện lời hứa, chuyển từ trạng thái "không bị ràng buộc" sang trạng thái "bị ràng buộc". Khi ra lệnh, trách nhiệm và sự ràng buộc này bị gắn vào người nghe, nghĩa là người nghe phải thực hiện nó hoặc bị ràng buộc phải thực hiện nó. 2.1.2. Động từ ngữ vi và cảu ngữ vi - phương tiên ngôn ngữ góp phần biên văn bản thành quy phạm pháp luật Tất cả các dự luật đều phải được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước công bố, ban hành thì mới trở thành luật và có giá trị luật pháp. Trước đó khi chỉ là các dự luật, dù có hoàn hảo và đúng đắn, phù hợp đến mấy cũng không thể là các quy phạm pháp luật cho một xã hội tuân thủ. Việc biến một văn bản dự luật thành các quy phạm pháp luật phải qua một quy trình nhất định, trong đó có một khâu rất quan trọng và cũng là khâu cuối cùng là lệnh công bố Bộ luật của Chủ tịch nước. Ta thấy mở đầu các Bộ luật đều là phần Lệnh cône bố Bộ luật, ví du Bô luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam mở đầu như sau : 51 ìn CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - H ạnh phúc S ố : 44L/CTN LỆNH CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; - Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội; NAY CÔNG BỔ : Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyết về việc thi h àn h Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995. Hà Nội, ngày 9 tháng 11 năm 1995 CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đ ã ký Lê Đức Anh Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, ta thấy Lệnh công bố Bộ luật trên có hiệu lực nhờ động từ ngữ vi "công bô" được đưa vào phát nsôn và phát neôn đươc “ngôn hành” hoá nhờ từ nay và ngồi thứ nhất “Chủ rịch nước CHXHCN Việt Narrì\ “đã k ỷ \ Phát ngôn này biểu hiện hành vi ngôn trung "công bố", thuộc nhóm Tuyên bố (Declaration) theo phân loại của Searle nói trên. Việc Chủ tịch nước công bố Bộ luật (tức là làm cho một dự luật chính thức trở thành luật pháp) đã được thực hiện bới hành động nói ra. Thực chất, theo Austin (đã dán). 52 thì hành động ngôn ngữ ở đây là một hành động xã hội: việc nói ra bằng lời cũng chính là việc thực hiện hành động công bố Bộ luật. Việc chính thức tuyên bố (bởi Chủ tịch nước) là Bộ luật đã được Quốc hội thông qua và cồng bố nó đã biến toàn bộ văn bản sau đó thành luật pháp. Ta hãy xem xét tư cách của động từ ngữ v i "công bô1 trong văn bản ưên ' theo các tiêu chí mà Searle đã đề ra. Thứ nhất, để phân biệt câu ngữ vi với câu trần thuật, câu chứa động từ ngữ vi phải có chủ ngữ là "tôi" và bổ ngữ của động từ ngữ vi phải ở ngôi thứ hai. Trong văn bản trên, động từ "công bô11 dường như xuất hiện trong bối cảnh đặc biệt khác lạ. Cả văn bản là một câu trong đó chủ ngữ là "Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam" và vị ngữ là "công bố". Nhưng thực ra hoàn toàn đó không phải là câu trần thuật vì nó có thể được diễn đạt bằng cách khác mà không làm thay đổi ý như sau : "Tôi, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, người ký dưới đây, công b ố Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam...". Như vậy đây là câu ngữ vi mà người phát, là Chủ tịch nước và người nhận là toàn thể công dân Việt Nam - đối tượng điều tiết của Bộ luật. Một bằng chứng nữa là khi đề nghị cách kiểm nghiệm động từ ngữ vi trong tiếng Anh Austin (1962) cũng đưa ra cách dùng trạng từ hereby đế thử. Động từ nào đi được với hereby sẽ là động từ ngữ vi, động từ nào không sẽ là động từ thường. Các bản dịch sang tiếng Anh của Lệnh công bố Bộ luật đều cho thấy người dịch đã chuyển cả cụm "nay công bố11 trong tiếng Việt thành "Hereby promulgates" tức là thêm trạng từ "hereby" vào trước động từ ngữ vi "promulgate" một cách rất tự nhiên. Như vậy có thể suy ra "nay" cũng là yếu tố kiểm nghiệm độn 2 từ ngữ vi trong tiếng Việt, như trong các kết hợp "nay sức", "nay ban bố", "nay thông cáo", "nay xin cam đoan". Theo nhiều nhà nghiên cứu (Nơuvễn Đức Dân (1998: 38) chẳng hạn) hành động ngữ vi được thể hiện ớ ngav lúc nói cho 53 nên động từ ngữ vi luôn ở thời hiện tại, nó không đi kèm với các từ "đã, đang, sẽ, vừa...". Trạng từ "nay" phải chăng là yếu tố làm hiểu minh trạng thái hiện tại của hành động ngữ vi ? Cũng có thể hiểu "nay" đưa vào trước động từ ngữ vi để có thể lược bỏ chủ ngữ "tôi” và câu mang bản chất của câu ngữ vi. Ví dụ : các câu "Tôi xin hứa", "Tôi xin cam đoan" và "Nay xin hứa", "Nay xỉn cam đoan" chỉ là một. Như vậy trong Lệnh công bố Bộ luật cụm từ "Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam " vừa là một tiêu đề cho biết chức danh, nhân thân của người công bố Luật vừa là chủ ngữ thay cho “/ới”, còn "Nay công bô" chính là động từ ngữ vi, phần xen giữa “ - Căn cứ vào Điều “ nêu điều kiện ban đầu cho hành động ngữ vi công bố luật pháp. Thứ hai là các điều kiện thuận lợi (Felicity Conditions) của các câu ngữ vi. Ta thấy ở đây phát ngôn trên (Lệnh công bố Bộ luật Dân sự) hoàn toàn đáp ứng các điều kiện thuận lợi mà Austin đã chỉ ra. Hãy xem xét điều kiện ban đầu (preparatory conditions) của câu ngữ vi trên. Người công bố là Chủ tịch nước là người có thẩm quyền - thay, mặt Nhà nước công bố luật theo quy định của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam. Người nói đại diện cho quyền lực cao nhất trong xã hội và người nghe là các công dân bình thường. Như vậy khoảng cách giữa các vai trong giao tiếp là đầy đủ cho việc thực hiện hành vi ngôn trung công bố luật pháp. Theo bảng tổng kết các đặc điểm cơ bản của các loại hành động ngữ vi trên của Searle, nhóm "Tuyên bố" (Declaration) có mẫu là s gây ra X, tức là xét về hướnơ của sự khớp ghép giữa lời nói (từ ngữ) với thực tại là "từ ngữ thay đổi thực tại". Như vậy có thể nói hành vi nsôn trung "công bố" của Chủ tịch nước có chức năng làm thay đổi thực tại. Nói cách khác là nỏ gây ra một sự kiện mới trong ĩhế giới thực tại: một bộ luật bát đáu có hiệu lực, một văn 54 bản đã trở thành quy phạm pháp luật. Phương tiện trực tiếp quan trọng để thực hiện một khâu trong quá trình biến văn bản thành quy phạm pháp luật là động từ ngữ vi và câu ngữ vi. 2.1.3. Câu ngữ vi - phương tiện ngôn ngữ góp phần tạo tính hành thực cho văn bản luật pháp tiếng Việt Phần này xét tiếp vai trò của câu ngữ vi trong văn bản luật pháp tiếng Việt. Trước hết nếu coi phần Lệnh công bố Bộ luật biến toàn bộ văn bản sau đó thành luật thì có nghĩa là nó có vai trò tạo khung và bao trùm, vai trò của một hành động ngữ vi vĩ mô (a macro speech act) như cách gọi của Van Dijk (1977 - dẫn theo Maley 1994) và các điều khoản ở các phần sau trong Bộ luật cũng mang tính hành thực (performativity) theo nghĩa là nó mang bản chất của những mệnh lệnh bắt buộc phải thực hiện đối với người tiếp nhận. Nói một cách cụ thể hơn, nếu chấp nhận quan điểm của Austin (1962) và Searle (1969) về câu ngữ vi (tất cả các câu có giá trị ngôn trung đều là câu ngữ vi) thì trong văn bản luật pháp các câu trong các điều khoán của quy phạm cấm đoán, quy phạm bắt buộc và quy phạm tuỳ nghi đều mang bản chất của các câu ngữ vi - tức là có giá trị ngôn trung của hành vi ngôn trung như : mệnh lệnh bắt buộc, cưỡng bức, cấm đoán, cho phép thuộc nhóm hành vi ngôn trung khuyến lệnh (directive). Thực chất thì văn bản luật pháp, theo cách nhìn này, là văn bản ghi lại quá trình giao tiếp giữa một bên là đại diện cho quvền lực tối cao của cộng đồng (Quốc hội) với một bẽn là các công dân. Bên phát ngôn (Quốc hội) thực hiện các hành vi ngôn trims ra lệnh, bắt buộc, cấm đoán, cho phép qua văn bán luật pháp và gắn các trách nhiệm, quvền và nghĩa vụ vào phía nsười nhận là các công dân, cũng tức là quy định cho họ quyền và nshĩa vụ qua văn bản luật pháp. 55 h Bản chất "mệnh lệnh" này của các điều khoản trong văn bản luật pháp sẽ được bàn kỹ hơn ở phần sau khi xem xét vai trò của tình thái trong việc tạo lập quyền và nghĩa vụ trong văn bản luật pháp tiếng Việt. 2.2. Tình thái - phương tiện ngôn ngữ quan trọng góp phần tạo lập quyền và nghĩa vụ trong văn bản luật pháp tiếng Việt 2.2.1. Giới thiệu 2.2.1.1. Vê tình thái trong ngôn ngữ Tinh thái là một vấn đề rất rộng và còn chưa được xác định rõ. Nó đang thu hút mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực như logic học, ký hiệu học và ngôn ngữ học. Tinh thái trong ngôn ngữ đã được nghiên cứu từ lâu. Bally đã phân biệt trong một mệnh đề gồm một phần là ngôn liệu (Dictum) và phần thái độ của người nói (modus) và khẳng định modus là phần tình thái, là linh hồn cúa câu, của văn bản và của cả hoạt động giao tiếp (theo Hoàng Tuệ 1988). Về khái niệm tình thái, nhiều nhà nghiên cứu uy tín trong lĩnh vực này như Von Wright (1951), Lyon (1977), Givón (1989), Palmer (1990) v.v... đều cho rằng đó là thái độ của người nói đối với điều được nói ra, đối với hoàn cảnh phát ngồn và với thực tế. Tuy vậy, do bản chất phức tạp, chưa rõ ràng của ván đề nên trong giới nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất về một số mặt quan trọng liên quan đến tình thái như các kiểu loại ý nghĩa tình thái, cách phân chia phạm trù tình thái v.v... Các nhà nghiên cứu tình thái dựa trên logic học loại trừ chủ quan của người nói ra khỏi tình thái và họ chia nội dung phạm trù tình thái ra thành 3 loại: 1) Mức độ có thể, 2) Mức độ tất yếu và 3) Hiện thực - phi hiện thực. Khi lý thuyết hành vi lời nói của Austin ra đời, tình thái được hiẽu rộng hơn. Các tác giả từ Searle (1977) đến Palmer (1990), Cao Xuân Hạo (1991), 56 Sweetser (1993) cho rằng ngoài tình thái của lời phát ngôn là thái độ đánh giá của người nói về nội dung phát ngôn còn phải xét đến tình thái của hoạt động phát ngôn là mục đích phát ngôn (như trần thuật, nghi vấn, mệnh lệnh ...) Trước tình hình như vậy, luận án này chấp nhận cách hiểu và phân loại tình thái của Palmer (1986, 1990) vì theo chúng tôi đây là cách tiếp cận tình thái mang tính khái quát cao và tương đối rõ ràng, phù hợp với việc nghiên cứu các phương tiện biểu hiện tình thái trong văn bản luật pháp. Cách phân loại tình thái của Palmer (1986) xuất phát từ sự phân loại thái (modes) của Von Wright (1951) trong nghiên cứu logic tình thái : 1) Thái Suy định (Alethic), hay còn được gọi là thái Chân lý 2) Thái Nhận thức (Epistemic), hay còn được gọi là thái Hiểu biết 3) Thái Chức phận (Deontic), hay còn được gọi là thái Đạo nghĩa 4) Thái Tồn tại (Existential), hay còn được gọi là thái Hiện tồn Các khả năng trên được chi tiết hoá như dưới đây : 57 Suy định Nhận thức Chức phận Tổn tại (Alethic) (Epistemic) (Deontic) (Existential) Cần yếu Minh xác Bắt buộc Phổ quát (Necessary) (Verified) . (Obligatory) (Universal) Khả năng Được phép Hiện tổn (Possible) (Permitted) (Existing) Không chắc Không rõ Bàng quan (Contingent) (Undecided) (Indifferent) Không thể Ngụy tạo Cấm đoán Trốn 2 không (Impossible) (Falsfied) (Forbidden) (Empty) B ả n g 5: Phân loại tình thái của Von Wright (Nguồn: Palmer 1990) Palmer (1990) lập luận rằng Thái suy định dù hay được xét đến trong logic học nhưng trong ngôn ngữ học nó lại không có ý nghĩa lớn, còn thái Tồn tại lại không thuộc phạm vi của ngôn ngữ học mà thuộc lý thuyết định lượng. Do vậy tác giả đã đề nghị chỉ nên xét đến hai loại thái có ý nghĩa lớn nhất trong ngôn ngữ học là thái Nhận thức (Epistemic) và thái Chức phận (Deontic). Palmer cũng đề nghị thay Không rõ (Undecided) thuộc thái Nhận thức bằng Khả năng (Possible) cho phù hợp hơn với cách dùng trong ngôn ngữ bình thường. Như vậy theo cách phàn loại này thì Khả năng là thuộc về thái Nhận thức chứ không thuộc thái Suy định như cách phân loại của Von Wright. Ngoài ra Palmer cũng xét đến một loại thái khác do Von Wright (1951) đề xuất là thái Năng động là tình thái hướng tới chủ ngữ (subject - oritented), loại tình thái nêu ý nguyện và khuynh hướng của chủ ngữ câu. Như vậy, theo quan điểm của Palmer (1986, 1990) thì cần xét đến ba loại tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên là tình thái Nhận thức (Epistemic), tình thái Chức phận (Deontic) và tình thái Năng động (Dynamic). T r o n s đó, tình thái Nhận thức là quan điểm của người nói về nội dung câu xét trên khía cạnh đúng sai (hướns tới thế giới hiểu biết, luận lý), tình thái Chức phận là thái độ của người nói về nội dung câu nói xét theo khía cạnh đạo lv, nshĩa vụ (đạo 58 |