Bộ Hoàng triều luật lệ thể hiện ý độ gì của nhà Nguyễn

Năm 1815, vua Gia Long đã ban hành bộ luật có tên là

Năm 1806 đã diễn ra sự kiện gì quan trọng trong lịch sử Việt Nam?

Nhà Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX có mối quan hệ như thế nào với nhà Thanh?

Vì sao nhà Nguyễn lại hạn chế buôn bán với các nước phương Tây?

Đâu không phải thách thức nhà Nguyễn phải đối mặt khi mới thành lập?

Trắc nghiệm: Năm 1815, vua Gia Long đã ban hành bộ luật có tên là

A. Hoàng triều luật lệ.

B. Đại Việt luật lệ.

C. Luật Hồng Đức.

D. Luật triều Nguyễn.

Trả lời

Đáo án đúng: A. Hoàng triều luật lệ.

Năm 1815, vua Gia Long đã ban hành bộ luật có tên là Hoàng triều luật lệ.

>>> Xem thêm: Vua Gia Long đã chia đất nước thành?

Giải thích của giáo viên Top lời giải về lí do chọn đáp án A.

- Năm 1802:

+ Nguyễn Ánh lần lượt đánh chiếm vùng đất từ Quảng Trị đến Nam Định và tiến thẳng Thăng Long. Quang Toản bị bắt, chấm dứt thời Tây Sơn.

+ Nguyễn Ánh đặt niên hiệu Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập ra triều Nguyễn.

=> Chế độ quân chủ chuyên chế được lập lại. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành từ trung ương đến địa phương.

=> Năm 1815 vua Gia Long đã ban hành bộ luật có tên là "Hoàng triều luật lệ" hay còn được biết đến với tên gọi Hoàng Việt luật lệ, Quốc triều điều luật,Nguyễn triều hình luật [luật Gia Long].

- Bộ luật gồm gần 400 điều, quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà nước và các tôn ti trật tự phong kiến.

- Có thể đánh giá đây là là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất trong hệ thống luật cổ của nước ta và là bộ luật đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam có sự thống nhất từ Bắc vào Nam.

- Vua Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ [còn được gọi là Luật Gia Long], gồm 22 quyển và 398 điều sau đó vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815. Bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh. Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ Quốc triều Hình luật thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của nhà Thanh, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật lệ”

- Giống như “Đại Thanh luật lệ”, Hoàng Việt luật lệ ngoài quyển đầu là mục lục các điều luật, bảng [hay đồ], thể lệ về phục tang, diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được chia thành 6 thể loại, tương ứng với việc của 6 bộ: Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, cách trình bày in ấn của “Hoàng Việt luật lệ” cũng giống với bộ luật nhà Thanh. Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” đã lược bỏ, thay đổi một số tiểu tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp với cách gọi tại Việt Nam [Một số điều luật thay đổi đơn vị hành chính “tỉnh” của Trung Quốc thành “doanh, trấn” của Việt Nam, chức danh lý trưởng của Trung Quốc bằng xã trưởng của Việt Nam].

- Hoàng Việt luật lệ được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam.

– Cấu trúc bộ luật: Bộ Hoàng Việt luật lộ gồm 398 điểu, chia thành 22 quyển. Việc chia quyển đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Mở đầu bộ luật in lời Tựa của đương kim Hoàng đế Gia Long khẳng định tư tưởng chính trị pháp lí cơ bản của triều Nguyễn là: ‘Thánh nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử tội dùng dạo đức để giáo hoá họ, hai điều ấy không thiên bên nào bỏ bên nào ” “pháp luật là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”. Tiếp sau là Tổng mục về luật, lộ của vua Việt Nam. Phần Danh lộ và Bản điều được sắp xếp như sau:

– Giới thiệu các quyển luật

+ Quyển 1, 2, 3: Ghi mục lục về luật các biểu đổ giá chuộc; năm hình phạt, nguồn gốc, ý nghĩa của hình phạt; đổ hình cụ, tang chế. Giải thích một số điểm trọng yếu của luật, cách xử lí tài sản bất hợp pháp. Danh lệ về thập ác và chủ yếu là những điều luật quy định về nguyên tắc chung [45 điều].

+ Quyển 4, 5: Luật Lại, quy định về chức chế và công vụ [27 điều].

+ Quyển 6, 7, 8: Luật Hộ, quy định về hộ tịch, điền trạch, đăng bạ, của cải, thuế điền thổ, trốn thuế. Điều chỉnh về hôn nhân, thu chi, cho vay, chợ, cửa hàng [66 điều].

+ Quyển 9: Luật Lễ, quy định về lễ nghi triều đình, tế tự, lăng tẩm, nhà cửa, y phục [26 điều].

+ Quyển 10, 11: Luật Binh, chủ yếu nhằm bảo vệ nhà vua, cung cấm điều chỉnh lĩnh vực quân sự, kiểm soát lưu thông, vấn đề biên giới, lưu chuyển công văn, trạm dịch [58 điều].

+ Quyển 12 đến quyển 20: Luật Hình [bao gồm cả hình sự và tố tụng], quy định về các nhóm tội phạm cụ thể và thủ tục khiếu tố kiện tụng, xét xử, giam giữ, thi hành án [166 điều].

+ Quyển 21: Luật Công, chủ yếu quy định về những vi phạm trong lĩnh vực xây dựng các công trình công cộng, kho chứa, đê điều, cầu đường [10 điều].

+ Quyển 22: Ghi mục lục Tổng loại và Tỉ dẫn điểu luật. Trong quyển này các nhà làm luật dự liệu 30 trường hợp so sánh để áp dụng tương tự.

– Cấu trúc các điều luật: Thông thường, điều luật thường có cấu trúc: Tên tội, điều luật, giải thích, điều lệ, một số điều còn có thêm phần tập chú. Tuy nhiên, không phải điều nào cũng có cấu trúc đó.

------------------------

Trên đây Top lời giải đã cùng các bạn tìm hiểu về Hoàng triều luật lệ. Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt.

Nêu nội dung chính của bộ Hoàng triều luật lê [luật Gia Long]. Việc mô phỏng theo phần lớn bộ luật của nhà Thanh đã biểu hiện thái độ gì của vua Gia Long?

Câu 318888: Nêu nội dung chính của bộ Hoàng triều luật lệ. Việc mô phỏng theo phần lớn bộ luật của nhà Thanh [Trung Quốc] đã thể hiện thái độ gì của vua Gia Long?

sgk trang 134, suy luận.

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm Bộ luật Gia Long
  • 2. Lịch sử hình thành của Bộ luật Gia Long
  • 3. Cấu trúc của Bộ luật Gia Long
  • 4. Nội dung chủ đạo của Bộ luật Gia Long
  • 5. Giá trị nhân đạo trong luật Gia Long

1. Khái niệm Bộ luật Gia Long

Bộ luật Gia Long là văn bản pháp luật quan trọng nhất và cũng là di tích pháp lí lớn nhất của Nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỉ XIX.

Bộ luật Gia Long, tên gọi chính thức là “Hoàng Việt luật lệ”, ngoài ra, còn được gọi với tên khác như “Hoàng triều luật lệ”, “Quốc triều điều luật. Bộ Gia Long do Tổng tài Nguyễn Văn Thành chủ trì việc biên soạn từ năm 1811 theo chỉ dụ của vua Gia Long và được ban hành năm 1815.

2. Lịch sử hình thành của Bộ luật Gia Long

Bộ luật này được vua Gia Long cho tiến hành biên soạn từ năm 1811, do Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài soạn, năm 1812 thì hoàn thành. Đến năm 1815, nhà vua cho ban hành và áp dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước. Có thể đánh giá đây là là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất trong hệ thống luật cổ của nước ta và là bộ luật đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam có sự thống nhất từ Bắc vào Nam.

Vua Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ [còn được gọi là Luật Gia Long], gồm 22 quyển và 398 điều sau đó vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815. Bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh. Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ Quốc triều Hình luật thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của nhà Thanh, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật lệ”

Giống như “Đại Thanh luật lệ”, Hoàng Việt luật lệ ngoài quyển đầu là mục lục các điều luật, bảng [hay đồ], thể lệ về phục tang, diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được chia thành 6 thể loại, tương ứng với việc của 6 bộ: Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, cách trình bày in ấn của “Hoàng Việt luật lệ” cũng giống với bộ luật nhà Thanh. Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” đã lược bỏ, thay đổi một số tiểu tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp với cách gọi tại Việt Nam [Một số điều luật thay đổi đơn vị hành chính “tỉnh” của Trung Quốc thành “doanh, trấn” của Việt Nam, chức danh lý trưởng của Trung Quốc bằng xã trưởng của Việt Nam].

Hoàng Việt luật lệ được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam.

3. Cấu trúc của Bộ luật Gia Long

– Cấu trúc bộ luật: Bộ Hoàng Việt luật lộ gồm 398 điểu, chia thành 22 quyển. Việc chia quyển đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Mở đầu bộ luật in lời Tựa của đương kim Hoàng đế Gia Long khẳng định tư tưởng chính trị pháp lí cơ bản của triều Nguyễn là: ‘Thánh nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử tội dùng dạo đức để giáo hoá họ, hai điều ấy không thiên bên nào bỏ bên nào ” “pháp luật là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”. Tiếp sau là Tổng mục về luật, lộ của vua Việt Nam. Phần Danh lộ và Bản điều được sắp xếp như sau:

– Giới thiệu các quyển luật

Quyển 1, 2, 3: Ghi mục lục về luật các biểu đổ giá chuộc; năm hình phạt, nguồn gốc, ý nghĩa của hình phạt; đổ hình cụ, tang chế. Giải thích một số điểm trọng yếu của luật, cách xử lí tài sản bất hợp pháp. Danh lệ về thập ác và chủ yếu là những điều luật quy định về nguyên tắc chung [45 điều].

Quyển 4, 5: Luật Lại, quy định về chức chế và công vụ [27 điều].

Quyển 6, 7, 8: Luật Hộ, quy định về hộ tịch, điền trạch, đăng bạ, của cải, thuế điền thổ, trốn thuế. Điều chỉnh về hôn nhân, thu chi, cho vay, chợ, cửa hàng [66 điều].

Quyển 9: Luật Lễ, quy định về lễ nghi triều đình, tế tự, lăng tẩm, nhà cửa, y phục [26 điều].

Quyển 10, 11: Luật Binh, chủ yếu nhằm bảo vệ nhà vua, cung cấm điều chỉnh lĩnh vực quân sự, kiểm soát lưu thông, vấn đề biên giới, lưu chuyển công văn, trạm dịch [58 điều].

Quyển 12 đến quyển 20: Luật Hình [bao gồm cả hình sự và tố tụng], quy định về các nhóm tội phạm cụ thể và thủ tục khiếu tố kiện tụng, xét xử, giam giữ, thi hành án [166 điều].

Quyển 21: Luật Công, chủ yếu quy định về những vi phạm trong lĩnh vực xây dựng các công trình công cộng, kho chứa, đê điều, cầu đường [10 điều].

Quyển 22: Ghi mục lục Tổng loại và Tỉ dẫn điểu luật. Trong quyển này các nhà làm luật dự liệu 30 trường hợp so sánh để áp dụng tương tự.

– Cấu trúc các điều luật: Thông thường, điều luật thường có cấu trúc: Tên tội, điều luật, giải thích, điều lệ, một số điều còn có thêm phần tập chú. Tuy nhiên, không phải điều nào cũng có cấu trúc đó.

4. Nội dung chủ đạo của Bộ luật Gia Long

So với Luật Hồng Đức thì Luật Gia Long của triều Nguyễn hà khắc hơn, nhưng nội dung và cách áp dụng rõ ràng hơn. Điều này thể hiện qua việc ban hành các nguyên tắc: Nguyên tắc luật định; nguyên tắc so sánh luật; nguyên tắc xét xử theo luật mới; nguyên tắc chiếu cố; nguyên tắc người thân thuộc được che giấu tội cho nhau; nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự; nguyên tắc luận tội theo tang vật; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền. Luật còn nghiêm cấm sử dụng các bản án chưa được biên soạn vào Bộ luật để làm chuẩn cho việc xét xử. Trong luật cũng quy định, nếu quan lại cố tình bao che hoặc bẻ cong sự thật, thì bị ghép vào tội vô ý hay cố ý thêm bớt tội cho người và phải thẩm xét cho rõ ràng và cải chính ngay.

So với các bộ luật trước đó, bộ luật này có sự nét đặc sắc riêng là tiến bộ và nhân đạo. Điều dễ thấy nhất trong bộ luật là các cực hình trong luật nhà Thanh như: Tru di tam tộc, Lăng trì, Yêm,… đều hoàn toàn bị loại bỏ trong bộ Hoàng Việt luật lệ này.

Ngoài ra, tính nhân đạo của bộ luật còn thấy rõ qua từng phiên tòa mở trong năm [trừ các tội Mưu phản, Đại phản nghịch, Đạo tặc…]. Theo luật, các phiên xử thường tổ chức vào đầu mùa thu chứ không mở vào đầu mùa hè vì theo luật, mùa hè, thời tiết nóng, sẽ ảnh hưởng xấu đến việc buộc tội của các phán quan. Nếu phiên tòa xử trong mùa thu năm nay mà chưa có phán quyết cuối cùng thì phải đợi đến mùa thu năm tới mới quyết án chung thẩm [gọi là Thu thẩm]. Trường hợp gặp tội nhân bị án tử hình [giam chờ – đợi để chống án hoặc xin ân xá hay chờ thỉnh ý vua] thì cũng phải đợi đến mùa thu khi có phiên tòa mới xử chung thẩm. Việc mở phiên tòa vào mùa thu là một điểm đáng chú ý của bộ luật này, mà đến nay chưa có bộ luật nào ngay cả luật các nước khác có được. Đây là đặc điểm và tính nhân đạo nổi bật của Hoàng Việt Luật Lệ.

Bên cạnh đó, các điều luật trừng phạt kẻ có tội, trong bộ luật này được phân định rõ ràng, hình phạt nghiêm minh, nhất là đối với quan lại nắm luật pháp.

Chằng hạn, điều luật về quan lại phạm tội ăn đút lót, điều luật ghi: “Người có ăn lương nhà nước [người được lương mỗi tháng 1 thạch trở lên] lạm dụng luật pháp ăn đút lót của nhiều chủ, buộc tội chung nhận của người mắc tội mà xử cong luật quẹo pháp, nhận tiền của một người thì phạt trọn việc đó. Như nhận tiền của 10 người một lúc, việc đổ bể, tính chung một chỗ, xử trọn một tội. Còn tội phạm hai việc trở lên, một chủ trước bị phát giác và xử tội, tội sau bị phát giác nhẹ hơn, cũng bị xử. 1 lượng trở xuống phạt 70 trượng, 1 lượng đến 5 lượng phạt 80 trượng, 10 lượng phạt 90 trượng, 10 đến 15 lượng phạt 100 trượng…80 lượng đúng, phạt treo cổ.

Không lạm dụng luật pháp, ăn đút lót của nhiều chủ, tính chung xử tội theo nửa số đó. Tuy có nhận tiền của người nhưng không xử cong quẹo, song nhận cùng lúc tiền của 10 chủ, việc đổ bể, tính gộp chung xử phân nửa tội, một chủ cũng xử phân nửa tội. 1 lượng trở xuống phạt 60 trượng, 1 lượng đến 10 lượng, phạt 70 trượng, 20 lượng phạt 80 trượng, 30 lượng phạt 90 trượng, 40 lượng phạt trăm trượng,…120 lượng trở lên treo cổ.

Luật Gia Long quy định rất ngặt và xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng nhận tiền của hối lộ, bắt dân phải nộp tiền…nếu như ai bị mắc vào mức nào thì căn cứ vào luật mà xử đoán. Những viên quan nào đến mức bị tước bỏ bằng, sắc, cáo của vua ban và bị xóa tên trong sổ bộ quan là bị bãi chức hoàn toàn. Còn lại tùy thuộc vào số lượng tiền của nhận hay chưa nhận mà có hình thức trách tội khác như lưu đày, đồ, bãi nhiệm, đánh đòn…

5. Giá trị nhân đạo trong luật Gia Long

Tư tưởng nhân đạo trong luật Gia Long thể hiện rõ nhất ở những quy định mang tính nhân văn như: Chính sách khoan hồng đối với người phạm tội, bảo vệ người già và trẻ em; giúp đỡ những người tàn tật và cô quả, những người có hoàn cảnh khó khăn và những người phạm tội tuy chưa bị phát giác đã đi tự thú.

Một trong những quan điểm chủ đạo của người Việt Nam là trọng già yêu trẻ. Vì thế trong luật Gia Long cũng áp dụng trong một số điều luật cho hai đối tượng này. Như trong quyển 3 mục Danh lệ, Điều 21 Lão thiếu phế tật thu phục [nhận giá chuộc đối với người già, trẻ em, người tàn phế]: “Nếu người già 70 tuổi trở lên, trẻ em 15 tuổi trở xuống và người tàn phế [hư mắt, gãy chân] phạm tội lưu trở xuống cho nhận giá chuộc tội… Người già 80 tuổi trở lên, trẻ em 10 tuổi trở xuống bệnh nặng, phạm tội giết người thì nghị xử tâu lên vua chờ quyết định của vua… Người già 90 tuổi trở lên, trẻ em 7 tuổi trở xuống dù có phạm tội chết cũng không phải chịu hình phạt nào…”. Điều 22 thì viết: “Lúc phạm tội mà chưa già, chưa tàn tật, nhưng khi tội bị phát giác thì xử theo tội già và tàn tật…”. Quyển 19, mục Hình luật, Điều 10 quy định: “Những người trên 70 tuổi [xót thương người già], 15 tuổi trở xuống [vì lòng yêu mến trẻ], tàn phế [thương kẻ tàn phế] nếu có phạm tội thì quan ti không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà định tội”.

Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh nữ, nhưng trong Luật Gia Long vẫn có một số điều quy định chú ý phần nào đến quyền lợi và thân phận người phụ nữ. Trong thời phong kiến địa vị của người phụ nữ được đánh giá rất thấp, tuy nhiên ở một mức độ nào đó, nhân phẩm người phụ nữ vẫn được đề cao và tôn trọng. Pháp luật nghiêm cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn. Quyển 7 Hộ luật hôn nhân, Điều 12 Cưỡng chiếm lương gia thê nữ viết rằng: “Cưỡng đoạt vợ con gái nhà lành bán cho người khác làm thê thiếp, hay đem dâng cho vương phủ, cho nhà huân công hào thích thì đều bị xử giam chờ thắt cổ”. Hay trong quyển 7 mục Hộ luật hôn nhân, Điều 15 Xuất thê viết rằng: “Nếu chồng bỏ vợ đi biệt 3 năm, trong thời gian ấy không báo quan biết, rồi bỏ đi thì phạt 80 trượng, tự ý cải giá thì phạt 100 trượng”. Như vậy người đàn ông mới có ý thức trách nhiệm với người phụ nữ hơn, quan tâm đến gia đình mình hơn.

Người Việt Nam luôn đề cao và bảo vệ giá trị đạo đức tốt đẹp của con người, như lòng nhân ái, sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, tình nghĩa vợ chồng… Những tiêu chuẩn đạo đức đó đều được ghi nhận và đề cao trong Luật Gia Long. Tất cả những ai phạm tội thập ác đều phải chịu hình phạt nặng nhất. Đề cao lòng hiếu thảo, quyển 9 mục Lễ luật, Điều 17 Khí thân chi nhiệm quy định: “Tuổi già có bệnh ắt đợi cháu con về phụng dưỡng để sau yên phần. Nếu con đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà già trên 80 tuổi mà lại bị bệnh nặng, trong nhà không có ai thay mình chăm sóc, mà không chịu về hầu hạ, tham phú quý vinh hoa, lợi lộc, bỏ nhiệm vụ hầu cha mẹ, tội này khép vào tội bỏ nhiệm vụ chăm sóc cha mẹ. Hoặc có người ngược lại cha mẹ không bị bệnh tật mà nói dối rằng cha mẹ mình bệnh mong có người về phụng dưỡng. Như vậy một là bỏ rơi cha mẹ, là bất nhân, mặt khác là kẻ bất nghĩa với vua, nên phạt 80 trượng”. Tình thầy trò cũng được đề cao, thầy giáo là người truyền dạy đạo lý làm người, tình nghĩa sâu nặng, quyển 15 Hình luật, Điều 10 Ẩu thụ nghiệp sư quy định: “Nếu đánh thầy dạy học của mình thì tăng thêm hai bậc tội so với đánh người thường. Đánh thầy đến tàn tật thì xử 100 trượng lưu đày ba ngàn dặm…”.

Nghiên cứu tìm hiểu về luật cổ Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về một di sản pháp luật mà thế hệ đi trước đã dành nhiều công sức và trí tuệ để xây dựng và ban hành. Luật Gia Long có thể xem là hoàn chỉnh và quan trọng nhất, là tập đại thành của toàn bộ nền pháp luật thời Nguyễn. Bộ Luật này với các chương mục, các điều luật lệ rõ ràng đã phản ánh trình độ lập pháp trong giai đoạn này. Bộ Luật Gia Long là di sản quý giá của dân tộc không chỉ trong lĩnh vực luật pháp mà còn trong nhiều lĩnh vực khác.

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên hoặc các nội dung khác liên quan tới giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án, Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6162 để được giải đáp thêm.

Trân trọng./

Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty luật Minh Khuê

Video liên quan

Chủ Đề