Các đề tài nghiên cứu khoa học về thư viện

Kết quả 1-12 trong khoảng 37

  • Giáo trình Bệnh học nội khoa (Tập 1: Tim mạch – thận): Phần 1

    Các đề tài nghiên cứu khoa học về thư viện

    Giáo trình Bệnh học nội khoa (Tập 1: Tim mạch – thận) cập nhật những kiến thức mới được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh tim mạch, thận, khớp, nội tiết. Mời các bạn cùng tìm hiểu phần 1 cuốn sách để tìm hiểu triệu chứng học bệnh tim mạch, ngừng tuần hoàn shock tim, ngất và lịm, loạn nhịp tim và điều trị, suy tim, viêm cơ...

     173 p ndun 14/03/2019 317 5

    Từ khóa: Giáo trình Bệnh học nội khoa, Bệnh học nội khoa, Tìm hiểu bệnh học nội khoa, Tham khảo bệnh học nội khoa, Nghiên cứu bệnh học nội khoa, Triệu chứng học bệnh tim mạch

  • Các đề tài nghiên cứu khoa học về thư viện
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • Các đề tài nghiên cứu khoa học về thư viện

Đây là ý tưởng được các đại biểu tại Trung tâm thảo luận số 3 “Sinh viên với học tập, sáng tạo, nghiên cứu khoa học”, tổ chức tại Đại học Bách Khoa Hà Nội chiều nay (10.12) trong khuôn khổ Đại hội Hội Sinh viên Việt Nam khóa X, đồng tình, ủng hộ.

Theo đại biểu Phan Thị Nhi, đoàn TP.HCM, mỗi năm có 38.000 đề tài NCKH của sinh viên được thực hiện, trong đó, nhiều đề tài được giải thưởng cấp bộ, nhưng tỷ lệ đề tài được ứng dụng vào đời thường, giúp ích cho đời sống lại chưa phát huy tốt.

Đại biểu Phan Thị Nhi trăn trở: “Nhiều đề tài nghiên cứu thiên về chuyên môn, sau khi tham gia các cuộc thi nằm ở thư viện là thực tế đáng buồn. Tại Đại hội Hội sinh viên lần này, nhiều sản phẩm sáng tạo của các bạn sinh viên trưng bày khiến bản thân mình rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, những sản phẩm sáng tạo sau khi trưng bày sẽ đi về đâu? Mong T.Ư Hội Sinh viên cần tạo ra những sân chơi, phát huy các sản phẩm nghiên cứu NCKH của sinh viên bằng cách giới thiệu với các đơn vị, doanh nghiệp để ngày càng có thêm nhiều đề tài nghiên cứu được ứng dụng vào đời sống”.

Các đề tài nghiên cứu khoa học về thư viện

Đại biểu phát biếu ý kiến tại Trung tâm thảo luận số 3

Ảnh Thu Hằng

Đại biểu Phan Anh Vũ, đoàn TP.HCM lại cho rằng, đề tài NCKH không ứng dụng được vào cuộc sống bởi các bạn sinh viên thường nghiên cứu trước rồi mới đến gặp doanh nghiệp “tiếp thị”.

“Tại sao chúng ta không tự đi tìm vấn đề đó? Sao chúng ta không tổ chức cuộc thi do chính các doanh nghiệp ra đề, hoặc hỏi doanh nghiệp cần gì rồi chúng ta nghiên cứu. Các bạn sinh viên nên đặt ra tính ứng dụng của đề tài trước, nếu không làm trước ứng dụng sau sản phẩm rất khó đi vào thực tế”, đại biểu Phan Anh Vũ chia sẻ.

Đồng tình với ý kiến sinh viên khi tham gia NCKH nên đi theo hướng nắm bắt nhu cầu, từ thực tế địa phương, có những vấn đề nóng chưa có giải pháp hay giải pháp chưa khả thi, anh Trần Minh Hoàng, đại biểu lực lượng vũ trang, đề xuất: “Hội nên xây dựng trung tâm lưu trữ trực tuyến các đề tài NCKH. Không chỉ đưa lên những sản phẩm, đề tài mang ứng dụng thực tế mà còn giúp sinh viên tiếp cận với doanh nghiệp. Từ đây doanh nghiệp cũng biết đến sinh viên. Họ sẽ tìm đến sinh viên, tìm đến những đề tài có tính khả thi”.

Để giúp sinh viên marketing sản phẩm của mình với các doanh nghiệp, anh Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Hội Sinh viên CHLB Đức, cho hay ngoài chuẩn bị cho sinh viên kiến thức nền tốt, Hội Sinh viên có thể tạo ra các diễn đàn kết nối cung - cầu giữa một bên là doanh nghiệp và sinh viên. Khi có cung cầu thông tin, những dự án nhỏ sinh viên có thể làm, những dự án lớn các thầy và cùng làm. Qua những dự án nhỏ, nhen nhóm tinh thần sáng tạo của sinh viên. Bên cạnh đó, từ sản phẩm của mình, các bạn sinh viên còn nhận được các khoản thù lao.

Theo các đại biểu, vấn đề tìm nguồn lực cho NCKH là một khó khăn khiến nhiều sinh viên e ngại không muốn tham gia. Từ kinh nghiệm thực tế, tại Đại học Công nghiệp kỹ thuật Thái Nguyên, anh Hoàng Trung Kiên, đại biểu đoàn Thái Nguyên, chia sẻ: “Hội Sinh viên cần một bộ phận thúc đẩy NCKH để có trực tiếp thể liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn về linh kiện. Họ có các chi nhánh trên toàn quốc, họ sẵn sàng cung cấp các danh mục thiết bị cho sinh viên nghiên cứu. Khi đó, Hội sẽ có ngân hàng về linh kiện, thiết bị, sinh viên vừa kinh phí nghiên cứu, vừa có lương, còn doanh nghiệp thì có giải pháp mà họ cần. Như vậy, công tác NCKH của sinh viên hiệu quả và thuận lợi hơn”.

Tâm đắc với ý tưởng mở thư viện số, nhiều đại biểu tại Trung tâm thảo luận số 3 còn góp ý thư viện có thể mở ra nguồn tài liệu, sách hiếm cho các bạn sinh viên ở các địa phương tham khảo, nghiên cứu; liên kết với Hội sinh viên ở nước ngoài để có thể phổ cập những tiến bộ khoa học kỹ thuật ở nước ngoài.

Tin liên quan

Full PDF PackageDownload Full PDF Package

This Paper

A short summary of this paper

0 Full PDFs related to this paper

Download

PDF Pack

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINHĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂNKHOA ĐỊA LÝMôn: Phương pháp nghiên cứu khoa học Đề tài:THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THƯ VIỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Giảng viên hướng dẫn: Châu Văn Ninh Nhóm nghiên cứu:Họ và tên MSSVPhạm Thị Aí 1356080001Trần Thị Mai 1356080073Trần Thị Bích Phưỡng 1356080105Mai Thị Thanh Sương 1356080112Phan Thị Tỉnh 1356080130MỤC LỤC1PHẦN I: MỞ ĐẦU1.Lý do chọn đề tài……………………………………………………………… 42.Giới hạn hay phạm vi nghiên cứu……………………………………………….43.Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………… 54.Nhiệm vụ………………………………………………………………………… 55.Ý kiến thực tiễn và giải pháp…………………………………………………… 56.Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………67.Tổng quan tình hình nghiên cứu……………………………………………… 6PHẦN II: NỘI DUNGCHƯƠNG I: THÔNG TIN THƯ VIỆNI.Khái niệm………………………………………………………………………… 8II.Nguồn gốc và vai trò của thư viện…………………………………………… 9III.Mộtsố thư viện nổi tiếng trên thế giới…………………………………………14IV.Một số thư viện ở Việt Nam……………………………………………………16CHƯƠNG II: SINH VIÊN NHÂN VĂN SỬ DỤNG THƯ VIỆN1.Số lượng sinh viên đã vào thư viện……………………………………………222.Mức độ thường xuyên vào thư viện………………………………………… 233.Lý do sinh viên vào thư viện……………………………………………………254.Việc đọc nội quy thư viện………………………………………………………275.Lý do mượn sách……………………………………………………………….2826.Mục đích vào thư viện……………………………………………………… 297.Tài liệu thường xuyên được sinh viên sử dụng………………………………308.Sinh viên vào thư viện lúc nào……………………………………………… 339.Sách thư viện có đáp ứng được nhu cầu sinh viên không 3410. Nơi sinh viên thường đọc sách……………………… …………………….3511.Việc sử dụng các dịch vụ thư viện của sinh viên………………………… 3612.Thời gian mở cửa của thư viện………………………………………………3713.Thái độ của cán bộ quản lý thư viện……………………………………… 3714.Đánh giá của sinh viên về điều kiện vật chất của thư viện……………… 39CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT……………………………………42PHỤ LỤC1.Bảng hỏi…………………………………………………………………………452.Tài liệu tham khảo…………………………………………………………… 50 PHẦN I: MỞ ĐẦU31.Lí do chọn đề tài: Hệ thống thư viện hiện nay ngày càng được mở rộng không chỉ ở các trường học mà còn ở các xã, huyện, tỉnh trên khắp cả nước. Đặc biệt trong các trường đại học, thư viện là nơi nắm giữ các nguồn tài nguyên trí tuệ phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên, sinh viên, Và trong trường Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn ( Cơ sở Linh Trung – Thủ Đức), thư viện là nơi luôn được mở rộng, nâng cấp với diện tích 1313 mét vuông với sức chứa 540 chỗ ngồi, gồm các phòng: Phòng đọc tham khảo, phòng đọc tham khảo Hàn Quốc, trung tâm Hán học Đài Loan, phòng mượn, phòng giáp trình, phong đọc báo – tạp chí, phòng tra cứu dữ liệu, phòng tra cứu – Đa phương tiện, phòng đọc tự do, phòng thảo luận nhóm và một lượng thông tin trên tài liệu giấy với 187252 bản sách, cơ sở dữ liệu trực tuyến với 82617 biểu ghi, tài liệu điện tử với 3469 bản (tương ứng với 1968 tên tài liệu), (theo thống kê của trung tâm thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn).Trên những điều kiện đó, thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn mong muốn tạo nên một môi trường tốt nhất để sinh viên học tập, nghiên cứu. Nhưng trên thực tế, một số sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn lại sử dụng thư viện không đúng mục đích cho phép như ngủ, ăn uống, trò chuyện thỏa thích, sử dụng dịch vụ internet trong việc vui chơi (facebook, game online, chat,…). Chính vì sự mâu thuẫn này, chúng tôi đã chọn đề tài “Thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn” làm nghiên cứu.2.Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Cơ sở 2, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.3. Mục đích nghiên cứu -Giúp nâng cao ý thức của sinh viên trong việc sử dụng thư viện cho đúng mục đích.4 -Tạo không gian thư viện lành mạnh, lịch sự, văn hóa.4.Nhiệm vụ-Khảo sát số lượng và thực trạng của sinh viên khi vào thư viện.-Đánh giá mức độ thường xuyên và thái độ của sinh viên khi vào thư viện.-Đề xuất giải pháp khắc phục và kiến nghị.5.Ý nghĩa thực tiễn và giải pháp: a.Ý nghĩa thực tiễn: Giúp sinh nhận thức rõ việc sử dụng thư viện có hiệu quả nhất đồng thời tạo một nét đẹp của sinh viên trong việc sử dụng thư viện. Nâng cao chất lượng thư viện hơn trong việc truyền, lưu giữ thông tin cho sinh viên. b.Giải pháp: - Tạo cho sinh viên cách sử dụng thư viện có hiệu quả bằng các lớp học hướng dẫn sử dụng thư viện. -Tổ chức các cuộc thi về thư viện (cách sử dụng,, ý thức,….) -Quản lý thư viện chặc chẽ hơn, tăng cường nhắc nhở sinh viên nâng cao ý thức sử dụng thư viện đúng mục đích. -Tăng cường các đầu sách chuyên ngành và giải trí. -Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của sinh viên về việc sử dụng thư viện có hiệu quả6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách thu thập dữ liệu thông qua công cụ bảng hỏi. Là phương pháp được sử dụng để lấy những thông tin trực tiếp của sinh viên,nhằm hiểu biết được mức độ quan tâm của sinh viên về vấn đề nghiên cứu.5 Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê mô tả và đưa ra kết quả nghiên cứu.Từ kết quả nghiên cứu đề ra biện pháp khắc phục,cải cách ý thức sinh viên đối với sử dụng thư viện. 7.Tổng quan tình hình nghiên cứu: Nhìn về mặt vĩ mô các vấn đề liên quan đến thư viện trong giai đoạn phát triển như hiện nay. Sinh viên trong các trường Đại học có thể tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau: từ các giảng viên, từ các cuộc thảo luận, hội thảo khoa học, từ các cơ sở thực nghiệm, từ thực tiễn xã hội và từ thư viện. Trong những nguồn thông tin ấy, thông tin từ thư viện sẽ là quan trọng nhất, đầy đủ, toàn diện, phong phú và đa dạng nhất. Thư viện trở thành nơi tìm đến của sinh viên tìm hiểu,khai hác thông tin kiến thức, phục vụ cho nhu cầu học tập, nghiên cứu của họ.Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nhìu vấn đề liên quan đến thư viện.Đề tài khoa học thư viện “Giải pháp nguồn tin điện tử phục vụ công tác đào tạo và nghiên cưú khoa học tại trường Đại học Ngoại Thương” của thạc sĩ Trần Thị Kiều Phương hoàn thành vào tháng 11 năm 2011. Trên cơ sở khảo sát nguồn tin điện tử của thư viên trường ĐH Ngoại Thương đề tài xác định được phương hướng và xác định giải pháp nâng cao và phát triển nguồn tin điện tử của trường nhằm phục vụ công tác học tập nghiên cứu cũng như học tập của sinh ciên và cán bộ nhân viên trường. Hay bài viết của thạc sĩ Lê Ngọc Oánh (2006), “Thư viện góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở bậc đại học”, Bản tin Thư viện – Công nghệ thông tin Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM Bài viết bàn về vai trò, của thư viên đối với nhà trường ngành giáo dục mục đích,chức năng, nhiệm vụ của thư viện và các giải pháp nâng cao chất lượng thư viện trường học.6Bài viết “Thư viên đại học và việt đổi mới phương pháp học tập của sinh viên” của Lê Quỳnh Chi được in trong tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đăng ngày 07_9_2011.Bài viết nói về thư viện và việc đổi mới phương pháp học tập của sinh viên, đưa ra nhiều phương pháp, thư viện tạo động cơ học tập, hình thành thói quen tra cứu tham khảo tài liệu nhằm đổi mới phương pháp học tập của sinh viên,từng bước hình thành kĩ thành kĩ năng đọc tài liệu, kĩ năng tìm kiếm, khai thác nguồn thông tin đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp học tập. Thư viện trường đại học là một nơi để sinh viên học tập nghiên cứu tham khảo tài liệu, nghiên cứu.Là một môi trường rèn luyện không thể thiếu để sinh viên phát huy khả năng độc lập tư duy, sáng tạo…. Nguyễn Thị Lan Thanh (2004), “Thư viện các trường đại học với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học”, Tham luận tại Hội thảo “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam – Hội nhập và thách thức”, Hà Nội.Nói về vai trò của trường đại học với việc nâng cao chất lượng nền giáo dục đồng thời đưa ra nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở Việt Nam….Tuy nhiên những đề tài nghiên cứu đó chỉ quan tâm đến vai trò, định hướng phát triển thư viện.Những ảnh hưởng của thư viện đến nền giáo dục đến sự phát triển của sinh viên chứ chưa tìm hiểu đến ý thức sử dụng của sinh viên về sử dụng thư viện. Ở góc độ vi mô, tại trường ĐHKHXH&NV cũng có những đề tài nghiên cứu của sinh viên,…về vấn đề thư viện.Nhưng, vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên chưa được đề cập tới trong các tài liệu, nghiên cứu một cách rõ ràng và hệ thống.Do đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu để tìm ra các giải pháp, kiến nghị hữu hiệu để nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên.7Các nội dung nghiên cứu trên, sẽ là những kiến thức căn bản và là nền tảng cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi được mở rộng và hoàn chỉnh những nội dung mà các đề tài trước chưa tìm hiểu.Phần II: NỘI DUNGCHƯƠNG I: THÔNG TIN THƯ VIỆNI. Khái niệm1.1 Thư viện là gì? Thư viện là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin qúy vị cần hoặc muốn. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông tin trở nên hữu ích. Chúng ta có nhiệm vụ đảm bảo sự tiếp cận không hạn chế các ý tưởng mà chúng ta thừa hưởng một cách hợp pháp, sau đó định hình và chuyển giao cho thế hệ tiếp theo. http://www.google.com.vn/giaidap/thread?tid=49da78b3e77d1c0b Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách,báo, tài liệu các loại, ấn phẩm định kì Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu để nghiên cứu thông tin, giáo dục & giải trí. http://www.google.com.vn/giaidap/thread?tid=49da78b3e77d1c0b1.2 Thư viện số (thư viện trực tuyến là gì)? Thư viện số hay thư viện trực tuyến là thư viện mà ở đó các bộ sưu tập được lưu trữ dưới dạng số (tương phản với các định dạng in, vi dạng, hoặc các phương tiện khác) và có thể truy cập bằng máy tính. Nội dung số có thể được lưu trữ cục bộ 8hoặc truy cập từ xa qua mạng máy tính. Thư viện số là một loại hệ thống truy hồi thông tin. http://vi.wikipedia.org/wiki/Thư_viện_số1.3 Thực trạng là gì? Tình trạng là thực trạng có thật có thể phản ánh những tình trạng xấu ảnh hưởng đến xã hội và cũng có thể là tình trạng mang tính tích cực. http://www.từ-điển.com/thực trạngII.Nguồn gốc và vai trò của thư viện2.1 Nguồn gốc thư viện Khoảng năm 290 TCN, pharaoh Ptolemy I Soter cho xây "Museion", trong đó có một viện đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn (scroll) sách vào lúc bắt đầu hoạt động. Người ta thường ghi rằng thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285 - 246 TCN). Vua này đã định chỉ tiêu 500.000 cuộn sách cho Thư Viện.[1] Theo nguồn tin xưa nhất, Bức thư của Aristeas (thế kỷ 2 TCN), Thư Viện vào lúc đầu được tổ chức bởi Demetrius của Phaleron,[2] một môn đồ của triết gia Aristotle, tức có thể là bạn học với pharaoh Ptolemy I Soter. Có câu chuyện kể rằng: vua Ptolemy III Euergetes hạ lệnh rằng, ai đến Alexandria có mang theo sách vở viết trên bất cứ chất liệu gì, bằng tiếng gì, theo Galen (129 - 216), đều phải kê khai vào danh sách "sách tàu" (vì đi tàu đến); những sách này đều được thư lại của nhà nước sao chép nhanh chóng. Có khi bản gốc được đem vào Thư Viện, và bản sao giao lại cho "khổ chủ". Trường hợp sách được viết bằng thứ tiếng khác thì ông cho dịch sang tiếng Hy Lạp. Muốn dịch sách từ một thứ tiếng sang tiếng Hy Lạp, phải có người biết rành cả hai thứ tiếng và có đủ trình độ hiểu biết về lãnh vực đề cập trong sách. Công việc này hẳn đã động viên rất nhiều người trí thức đến từ nhiều nơi. Câu chuyện 72 giáo sĩ Do Thái giáo - mỗi bộ lạc của 12 bộ lạc Do Thái được đại diện bởi 6 vị giáo 9sĩ - đã đóng cửa làm việc trong 72 ngày trên đảo Pharos để dịch Kinh Thánh Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay. Vua Ptolemy III cũng rao mua sách từ khắp các nước mà ông biết đến, trong đó có Rhodes và Athena.[3] Theo Galen, Ptolemy III Euergetes hỏi mượn người Athena bản viết tay nguyên gốc của Aeschylus, Sophocles và Euripides; người Athena đòi số tiền thế chân khổng lồ là 15 talent. Vua Ptolemy III giao đủ tiền, nhưng giữ luôn sách lại, không thèm đổi lấy lại tiền thế chân. Bằng những cách như vậy, Thư Viện dần dần có được đến 90.000 tài liệu được coi là bản nguyên thủy. Ban đầu, sách Thư Viện phần lớn là những cuộn giấy chỉ thảo (papyrus). Nhưng ngày càng có thêm nhiều cuộn da thuộc, chất liệu thông dụng sau năm 300 TCN. Người ta cho rằng Thư Viện thúc đẩy nhu cầu, khiến cho sách viết trên da thuộc phát triển, vì nhà Ptolemy giữ giấy chỉ thảo dùng cho Thư Viện, nên xuất khẩu giấy này rất ít, các xứ khác phải tìm tòi phát triển chất liệu khác để ghi chép lên. Theo học giả Carl Sagan, Thư Viện có lúc có đến gần 1 triệu cuộn sách. Ngày nay không còn thư mục nào tồn tại, nên khó biết thực hư ra sao. Nhiều học giả đồng ý với con số xấp xỉ 700.000 cuộn sách trước vụ cháy năm 48 TCN. Vài trăm ngàn cuộn sách có lẽ tương ứng với vài mươi ngàn tựa, vì nhiều tựa sách lại có nhiều dị bản song song với nhau. http://vi.wikipedia.org/wiki/Thư_viện_Alexandria2.2 Vai trò của thư viện2.2.1 Thư viện là động lực đóng góp vào việc đổi mới giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực Trong trường đại học, thư viện góp phần đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cho đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển sản xuất và các khoa học công nghệ. Thư viện cung cấp cho xã hội những thông tin khoa học mới mẻ, đặc biệt là những thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên và sinh 10viên trong trường. Đây là dạng thông tin mang tính đặc thù và đôi khi là những thông tin độc nhất, khó tìm thấy ở nơi khác. Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới, những phương pháp giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn. Thư viện mở rộng điều kiện học tập cho sinh viên cả về không gian, thời gian và các lĩnh vực tri thức hơn so với khuôn khổ qui định về nội dung, chương trình và kế hoạch đào tạo của nhà trường. Công nghệ thông tin - truyền thông đang đưa đến một cuộc cách mạng giáo dục - sư phạm thật sự, làm thay đổi nhiều khái niệm cơ bản của giáo dục, nghiên cứu khoa học. Tại nhiều hội thảo bàn về vấn đề này, các ý kiến đã thống nhất hiệu quả, tiện ích của áp dụng phương tiện thông tin hiện đại và công nghệ vi tính để soạn giáo trình, dạy - học, khai thác các nguồn tư liệu trong dạy - học và nghiên cứu khoa học. Tham gia quá trình ứng dụng công nghệ thông tin và Internet vào giảng dạy - học tập, nghiên cứu khoa học, thư viện trở thành những trung tâm thông tin - tư liệu thực sự, góp phần đắc lực biến thông tin thành tri thức bằng cách liên kết các nguồn tài nguyên thông tin với nhau, đồng thời mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu tin của mọi đối tượng qua sự hợp tác liên thông và chia sẻ nguồn lực thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm cả thời gian và vật chất cho người sử dụng. Vai trò giáo dục, góp phần đào tạo nguồn nhân lực của cán bộ thư viện được thể hiện rõ nét qua việc hướng dẫn, giảng dạy về các kỹ năng tìm kiếm và khai thác thông tin để hỗ trợ cho người dùng tin khai thác hiệu quả nguồn thông tin sẵn có.2.2.2 Thư viện góp phần đổi mới phương pháp dạy - học, tạo môi trường tự học và tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của người học Mục tiêu quan trọng nhất đối với giáo dục đại học trong kỷ nguyên thông tin là tạo ra những con người có khả năng tự định hướng học tập, tự học thường xuyên, biết chọn lọc, xử lý thông tin và có khả năng sáng tạo tri thức, tự tin hội nhập vào 11thị trường lao động “chất xám” quốc tế đầy tính cạnh tranh. Đây là xu thế tất yếu trong xã hội thông tin. Hoạt động giảng dạy, học tập thực chất là một quá trình truyền đạt và tiếp nhận thông tin. Nếu giáo viên nắm bắt, cập nhật được những thông tin mới thường xuyên và vận dụng phù hợp với quá trình giảng dạy thì bài giảng sẽ sinh động, phong phú và đi sát với thực tế hơn. Nếu sinh viên tìm tài liệu, khai thác thông tin - tư liệu hiệu quả thì chất lượng học tập và khả năng nghiên cứu khoa học sẽ được nâng cao rõ rệt. Trong trường đại học, hoạt động khai thác thông tin đóng vai trò tích cực vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy – học. Phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một số điều kiện tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách phát huy nội lực”. Phương pháp dạy - học mới sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở sinh viên được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của sinh viên với sự trợ giúp của thư viện. Và cùng với học trò, người thầy lại tiếp thu những kiến thức mà chính mình đang giảng dạy, nhìn nhận chúng qua lăng kính của người học. Có thể nói đó là quá trình truyền thụ – tiếp thu kiến thức một cách chủ động và có tính sáng tạo. Chính vì vậy, để thực hiện tốt sứ mệnh của mình, người thầy không thể không đọc tài liệu, cập nhật và sử dụng thông tin. Cũng có thể nói rằng, trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có vai trò đóng góp của thư viện. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh viên.122.2.3 Vai trò của cán bộ thư viện đại học trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng Trong tất cả các yếu tố góp phần làm tăng chất lượng, hiệu quả của hoạt động quản lý và khai thác thông tin thư viện, yếu tố con người là quan trọng nhất và mang tính quyết định. Cán bộ thư viện là cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin và người dùng tin. Chúng ta có thể nói một khiếm khuyết rất quan trọng của thư viện đại học hiện tại là chưa chú trọng đúng mức tới việc hướng dẫn cụ thể sinh viên phương pháp nghiên cứu, tìm tư liệu, cung cấp thông tin thư tịch để sinh viên hứng khởi, ham thích trong công việc nghiên cứu. Với vai trò đóng góp vào sự đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập tại trường, cán bộ thư viện phải chủ động giới thiệu, cung cấp nguồn thông tin phong phú, đa dạng. Đồng thời, cán bộ thư viện phải tạo môi trường thân thiện, thông thoáng, chuyên nghiệp không chỉ bằng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi mà còn bằng khả năng giao tiếp tốt. Các cán bộ thư viện ngày nay không thể chỉ bằng lòng là những người “thủ kho giữ tài liệu” với phương châm “ vui vẻ, hòa nhã, nhiệt tình” mà còn phải là những “ hoa tiêu” trong ”đại dương” thông tin; năng động, thạo nghề, có trình độ ngoại ngữ, tin học để chỉ ra những tài liệu độc giả cần một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Bên cạnh đó, cán bộ thư viện phải luôn có ý thức trách nhiệm động viên, nuôi dưỡng thói quen và sự hứng thú đọc sách cho sinh viên. Để làm được điều này, nhà trường cần có một kế hoạch gửi các cán bộ thư viện đi đào tạo lại, đào tạo mới không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn cả về tin học, ngoại ngữ bằng những khóa học ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước. Đồng thời, bổ sung những cán bộ trẻ có năng lực, có khả năng sáng tạo, có tâm huyết.Ngoài các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, người cán bộ thư viện còn cần được đào tạo các kiến thức về tâm lý, kỹ năng giao tiếp… để biết vận dụng 13khéo léo khả năng, trình độ của mình vào công việc và có những thái độ, cư xử thích hợp với bạn đọc trong từng tình huống khác nhau. Việc cán bộ thư viện biết cách cộng tác và tranh thủ sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo trong nhà trường và đội ngũ giảng viên là điều cơ bản nhất cho sự thành công của các hoạt động thư viện. Cán bộ thư viện phải tìm những cơ hội để có quan hệ mật thiết hơn với các giảng viên nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ họ trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và chính giảng viên lại là người cung cấp những thông tin có giá trị để phát triển bộ sưu tập và các dịch vụ của thư viện. Khi thiết lập được sự cộng tác tốt thì chắc chắn thư viện sẽ có một môi trường làm việc thuận lợi. Công tác liên hệ tốt sẽ đưa giảng viên và sinh viên tham gia vào các hoạt động của thư viện, chia sẻ, cảm thông với thư viện như chính người “trong cuộc”. http://nlv.gov.vn/nghiep-vu-thu-vien/thu-vien-dai-hoc-gop-phan-nang-cao-chat-luong-dao III.Một số thư viện nổi tiếng trên thế giới Thư viện Admont, ÁoNằm trên dòng sông Enns thơ mộng, Admont là thư viện dành cho tu sĩ lớn nhất thế giới. Xây dựng năm 1776, mái vòm thư viện được trang trí bằng những bức bích họa của họa sĩ đại tài Bartolomeo Altomonte. Thư viện hiện lưu giữ hơn 200.000 đầu sách. Thư viện Saint Gall, Thụy SĩThư viện được thành lập bởi Thánh Othmar, hiện nắm giữ bộ sưu tập sách cổ nhất Thụy Sĩ với 2.100 bản thảo từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 15. Thư viện mạng phong cách kiến trúc Rococo, do kiến trúc sư Peter Thumb thiết kế. Thư viện Wiblingen, ĐứcWiblingen được xây dựng năm 1093. Ngày nay tu viện được trưng dụng làm Khoa Y học của Đại học Ulm. Thư viện nằm trong tu viện này đặc biệt nổi tiếng với kiến 14trúc đặc trưng của thế kỷ 18 và được mở cửa thường xuyên phục vụ người dân đến tham quan và tra cứu tư liệu. Thư viện tòa thánh VaticanThư viện Tòa Thánh Vatican được coi là một trong những thư viện lâu đời nhất thế giới có niên đại từ thời giáo hoàng đầu tiên lên ngôi. Thư viện chứa nhiều tài liệu bí mật của tòa thánh và được trùng tu lần mới nhất là vào năm 2010. Thư viện của tu viện Melk, ÁoĐược thành lập vào năm 1089, tu viện của dòng tu Benedictine Melk đã hoạt động hơn 900 năm mà chưa từng bị gián đoạn. Thư viện trong tu viện là một căn phòng làm bằng đá cẩm thạch vô cùng ấn tượng, được trang trí bởi những bức bích họa nổi tiếng của họa sĩ Paul Troger, có thể nhìn ra sông Danube. Thư viện Bảo tàng Morgan, New YorkPierpont Morgan (1837 - 1913) là một chuyên gia tài chính có ảnh hưởng ở New York và cũng là một nhà sưu tập lớn mà bằng chứng là những bảo tàng và thư viện do ông thành lập. Thư viện hiện lưu giữ rất nhiều tài liệu quý giá như Kinh Thánh Gutenberg, bản thảo Symphony của nhà soạn nhạc nổi tiếng Mozart hay thư tín của Oscar Wilde. Thư viện của lâu đài Fontainebleau, PhápThư viện của lâu đài Fontainebleau có thể coi là tổ tiên của thư viện quốc gia Pháp, được thành lập vào năm 1808 nhưng theo thiết kế từ năm 1786. Ngay từ khi thành lập, thư viện đã có 4.500 cuốn sách liên quan đến lịch sử, địa lý và khoa học. Thư viện Chethams, Manchester, AnhThư viện Chethams là một trong những thư viện lâu đời nhất nước Anh, được thành lập năm 1653 hiện phục vụ cho sinh viên nghiên cứu học tập. Thư viện chứa hơn 100.000 cuốn sách, trong đó 60.000 cuốn xuất bản trước năm 1851. Thư viện Bảo tàng Victoria và Albert, London, Anh15Thư viện này nằm trong Bảo tàng Victoria và Albert ở London, là công trình được xây dựng dành riêng cho nghệ thuật trang trí và nằm trong khu phố South Kensington. Thư viện Alexandrina, Ai CậpĐược xây dựng để ghi nhớ sự tồn tại của thư viện cổ Alexandria, thư viện mới được khánh thành vào năm 2002 sau 7 năm xây dựng tại chính khu đất cũ của thư viện cổ Alexandria. Thư viện có thể lưu trữ đến 5 triệu cuốn sách.http://dulich.vnexpress.net/photo/anh-video/nhung-thu-vien-noi-tieng-tren-the-gioi-2884 IV. Thư viện ở Việt Nam4.1 Một số thư viện lớn Thư viện Quốc Gia Hà Nội là thư viện Quốc gia lớn nhất cả nước, nằm trên phố Tràng Thi. Được thành lập năm 1919, thư viện lúc đó có tên là thư viện Pierre Pasquier. Năm 1939, thư viện chứa 92.163 cuốn sách, chiếm 20% số lượng sách tại Việt Nam có lúc đó. Sau 1954, thư viện được đổi tên thành thư viên trung tâm. Ngày 26/6/1957, đổi tên thành thư viên Quốc gia. Hàng năm thư viện Quốc gia luôn tiếp nhận sách mới sản xuất tại Việt Nam và nước ngoài. Tổng số sách trong thư viện lên đến hơn một triệu cuốn sách, hơn 7 tạp chí, báo của Việt Nam và nước ngoài. Các luận văn tiến tiến sĩ và thạc sĩ của các nhà khoa học Việt Nam đều được giữ ở đây. Thư viện Quốc gia thường xuyên trao đổi sách với hơn 300 thư viện, các viện nghiên cứu lớn của hơn 100 nước trên thế giới và là thành viên của Hiệp hội Thư viện Quốc tế.Thư viện Quốc gia đã lưu trữ hàng trăm cuốn sách quý từ khắp nơi trên thế giới. Thư viện lưu giữ sách theo các chủ đề lớn về đời sống, kinh tế, khoa học, lịch sử, và kĩ thuật.16 Các thư viện khác ở Hà Nội là thư viện Khoa học và Kĩ thuật, thư viện Khoa học xã hội (26 Lý Thường Kiệt), thư viện Quân Đội (phố Lý Nam Đế) và thư viện Hà Nội (47 Bà Triệu) http://maxreading.com/sach-hay/di-tich-lich-su-van-hoa/ha-noi-thu-vien-quoc-gia-3476.html Thư viện khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí MinhPhòng có kích thước lớn nhất trong các phòng phục vụ của thư viện, có hơn 400 chỗ ngồi.Phục vụ cho bạn đọc đến nghiên cứu và học tập. (Tầng 1)Trang thiết bị: 02 máy tính dành cho bạn đọc tra cứu CSDL của Ngân hàng Thế Giới.04 máy tính cho bạn đọc tra cứu cơ sở dữ liệu của Thư việnVới hơn 20.000 bản, sách được xuất bản từ năm 2007 trở lại đây, thuộc các lĩnh vực KHTN, KHKT, KHXH, TPVH, sách tham khảo. Gồm các ngôn ngữ: Việt, Anh, Trung hoa, v.vTừ điển chuyên ngànhSách tiếng Anh của Quỹ Châu Á Góc Thông tin Ngân hàng thế giới thuvienkhth.blogspot.com4.2 Thư viện trường Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh4.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển Thư viện Đại học KHXH & NV TP. HCM có lịch sử hơn 53 năm. Tiền thân là thư viện trường Đại học Văn Khoa thuộc Đại học Sài Gòn(thành lập năm 1955), phục vụ cho công tác đào tạo 7 ngành: Văn chương Việt Nam, Hán Nôm, Lịch sử, Địa lý, Triết học, Anh văn, Pháp văn. 17 Tháng 04/1977 Thư viện trường Đại học Văn Khoa hợp nhất với thư viện trường Đại học Khoa Học thành thư viện trường Đại học Tổng hợp TP HCM phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học cơ bản lớn nhất ở các tỉnh phía Nam. Vào tháng 03/1996, nhằm đổi mới, sắp xếp lại mạng lưới các trường Đại học trên phạm vi cả nước, theo quyết định 1233/GD–ĐT ngày 30/03/1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo, trường Đại học KHXH & NV được thành lập (tách ra từ trường Đại học Tổng hợp TP HCM), là trường thành viên của Đại học Quốc Gia TP HCM. Trên cơ sở này, Thư viện được tách ra từ thư viện Đại học Tổng hợp. Từ năm 1997 đến nay, thư viện phục vụ theo hướng mở, tiến hành tin học hóa thư viện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên tiếp cận dễ dàng vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của thư viện. Hiện nay Thư viện ĐHKHXH & NV là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của trường Đại học KHXH & NV - Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG TP HCM). Thư viện giữ một vị trí quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại 14 khoa và 8 bộ môn trực thuộc trường với 31 ngành khác nhau thuộc các lĩnh vực KHXH & NV. Vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của thư viện được bổ sung và cập nhật theo các chuyên ngành đào tạo của trường và đã đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng tăng lên của cán bộ, giảng viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và sinh viên của trường. Đồng thời vốn tài liệu - nguồn lực thông tin của thư viện cũng thu hút được sự chú ý của nhiều cán bộ thuộc cơ quan đơn vị khác trong và ngoài thành phố Hồ Chí Minh. Thư viện phục vụ các bậc đào tạo Đại học về các ngành: Triết học, Ngữ văn, Báo chí, Lịch sử, Địa lý, Thư viện – Thông tin học, Đông phương học, Xã hội học, Giáo dục học, Việt Nam học, Ngữ văn Anh, Ngữ văn Pháp, Ngữ văn Nga, Ngữ văn Trung Quốc, Ngữ văn Đức, Văn hóa học, Nhân học, Quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó vốn tài liệu - nguồn lực thông tin của thư viện phục vụ đắc lực cho các bậc đào tạo cao học về các ngành: Văn học Việt Nam; Ngôn ngữ học so sánh; 18Ngôn ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Dân tộc học; Địa lý học; Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tái tạo tài nguyên thiên nhiên; Triết học; Giảng dạy tiếng Anh; Xã hội học; Khoa học Thư viện – Thông tin. Ngoài ra thư viện cũng giữ vai trò quan trọng trong việc phục vụ đào tạo bậc tiến sĩ về các ngành: Ngôn ngữ học so sánh; Lý thuyết và lịch sử văn học; Ngôn ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Lịch sử cận hiện đại; Dân tộc học; Lịch sử triết học; Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 4.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu Chức năng:Thư viện là trung tâm thông tin, trung tâm văn hóa, khoa học của trường ĐH KHXH & NV. Thư viện có chức năng cung cấp tri thức và thông tin – tu liệu về các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước, phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường. Thư viện có trách nhiệm tổ chức, quản lý, bổ sung, thu thập, bảo quản các tài liệu, sách, báo, tạp chí, băng, đĩa, các luận án đã bảo vệ tại trường, các ấn phẩm của trường và các tài liệu lưu trữ khác, hướng dẫn và quản lý công tác quyền sở hữu trí tuệ của trường. Nhiệm vụ: Nghiên cứu đề xuất phương hướng, chủ trương, kế hoạch phát triển nguồn tài nguyên thông tin về các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước phù hợp với nhiệm vụ đào tạo và NCKH của trường ĐH KHXH & NV đồng thời chịu trách nhiệm bảo quản nguồn tài nguyên thông tin đó. Tổ chức cho đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên của trường khai thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin do thư viện quản lý: - Tổ chức kho mở theo môn loại tri thức, phân loại và sắp xếp tài liệu theo từng chuyên ngành khoa học - công nghệ;19 - Xây dựng và hoàn thiện bộ máy tra cứu điện tử để bạn đọc - người dùng tin tìm tài liệu nhanh chóng; - Thông báo kịp thời những tài liệu mới, nguồn tin mới; - Tổ chức các hình thức tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi các tài liệu, sách báo, tạp chí, các nguồn tin điện tử; - Tổ chức các CSDL giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo theo học chế tín chỉ. - Biên soạn các loại hình thư mục, ấn phẩm thông tin phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo và tự học; - Tổ chức hệ thống các phòng phục vụ: phòng đọc sách, báo - tạp chí tại chỗ, phòng mượn, phòng tra cứu dữ liệu, phòng đọc đa phương tiện, phòng đọc tài liệu hạn chế Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu những vấn đề lý luận của công tác thư viện - thư mục - thông tin trong nước và ngoài nước để góp phần xây dựng lý luận thư viện học, thư mục học và thông tin học của Việt Nam. Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ thư viện trở thành các chuyên gia thông tin; chủ động thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, công nghệ thông tin cho cán bộ thư viện để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ. Đặt quan hệ đối ngoại với thư viện các nước để trao đổi tài liệu, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với thư viện đại học nước ngoài. Có trách nhiệm phối hợp, hợp tác tốt về mặt nghiệp vụ với các thư viện, Trung tâm thông tin lớn ở trung ương như Viện Thông tin KHXH VN, Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia và Liên hiệp Thư viện các trường đại học; liên thông với hệ thống thông tin-thư viện của cả nước.20 Thu nhận những ấn phẩm do trường xuất bản, các luận văn cao học, luận án tiến sĩ được bảo vệ tại trường hoặc người viết luận văn, luận án là cán bộ của trường. Kiểm kê tài liệu theo định kỳ hàng năm. Phối hợp chặt chẽ với các Khoa, các phòng ban chức năng trong trường để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mục tiêu: Đảm bảo Thư viện hoạt động theo chiến lược phát triển chung của Nhà trường và được quản lý một cách khoa học, hiệu quả và có trách nhiệm. Phát triển và duy trì các chính sách và kế hoạch hướng tới người sử dụng và lấy người sử dụng thư viện làm trung tâm. Phát huy tối đa khả năng và tiềm lực của các cán bộ thư viện để họ có thể làm việc một cách hiệu quả, có trách nhiệm và sáng tạo. Sử dụng thích hợp, thành thạo và sáng tạo chuyên môn nghiệp vụ thư viện. Duy trì và phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị thư viện nhằm phát huy tối đa hiệu quả và hiệu suất phục vụ để cung cấp và phân phối các dịch vụ thông tin. Hỗ trợ và mở rộng quá trình dạy và học thông qua việc phân phối và đẩy mạnh việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực thông tin. Cung cấp môi trường thông tin phong phú, đa dạng để hỗ trợ và khuyến khích tốt nhất cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh vị thế và danh tiếng của trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thông qua sự đa dạng của các sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện, sự hợp tác với các tổ chức ở trong và ngoài nước và sự đóng góp của các cán bộ thư viện cho xã hội. http://lib.hcmussh.edu.vn/CHƯƠNG II: SINH VIÊN NHÂN VĂN SỬ DỤNG THƯ VIỆN21 Bảng: Tương quan về giới tính trong 100 người vào thư việnGiới tính Tần sốPhần trămPhần trăm hợp lệPhần trăm tích lũyGiá trịNam 34 34.0 34.0 34.0Nữ 66 66.0 66.0 100.0Tổng 100 100.0 100.0 Qua bảng thì trong số 100 người được hỏi thì có 34 nam và 66 nữ.1.Số lượng sinh viên đã vào thư viện: Kết quả thu thập được như sau: Bảng: Số lượng sinh viên đã vào thư viện:Đã vào thư việnTần suất Phần trămGiá trị phần trămPhần trăm tích lũyGiá trịCó 86 86.0 86.0 86.0Không 14 14.0 14.0 100.0Tổng 100 100.0 100.0 Từ kết quả trên cho thấy số lượng sinh viên đã vào thư viện là 86 bạn chiếm 86% chiếm đa số. 14 bạn chưa vào thư viện chiếm 14%.2.Mức độ thường xuyên vào thư viện Bảng: Mức độ thường xuyên vào thư viện của sinh viên:Mức độ vào thư viện22 Tần suất Phầntrăm Giá trị phần trămPhần trăm tích lũyGiá trịThường xuyên14 14.0 16.7 16.7Thờng 20 20.0 23.8 40.5Thỉnh thoảng42 42.0 50.0 90.5Hiếm khi8 8.0 9.5 100.0Tổng 84 84.0 100.0 Tổng 16 16.0 Tổng 100 100.0 Biểu đồ thể hiện mức độ thường xuyên mượn sách thư viện của sinh viên trường ĐHKHXH & NV : Từ kết quả trên, trong tổng số 84 bạn vào thư viện có 14 bạn thường xuyên vào thư viện, chiếm 16,3%. 20 bạn thường vào thư viện, chiếm 23,8%. 42 bạn thường và thư viện, chiếm 50% và 8 bạn hiếm khi vào thư viện, chiếm 9,5%.23 Trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có vai trò đóng góp của thư viện. Đặc biệt trường ĐHKHXH & NV là trường học theo hệ thống tín chỉ, thời gian sinh viên lên lớp rút ngắn đi nhiều, chủ yếu là thời gian sinh viên tự học tập. Hơn nữa, những tiết học trên lớp chỉ là thời gian giảng viên hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, đọc sách… Chính vì vậy, vào những tiết tự học thì thư viện là lựa chọn hàng đầu của sinh viên. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh viên. Có thể, trên giảng đường, sinh viên đi học một cách uể oải, gượng ép để… điểm danh! Nhưng khi bước chân vào thư viện bạn sẽ thấy mọi người lên thư viện đều là tự nguyện, xuất phát từ niềm đam mê đọc sách và ham tìm tòi, nghiên cứu… Đến đó, thấy mọi người học hành nghiêm túc, chăm chỉ, say sưa… Và tự nhiên sinh viên được tiếp thêm một nguồn động lực để học tập. Có nhiều người không lên để đọc sách mà để tìm cảm hứng học tập ở đây.3.Lý do sinh viên không vào thư viện Bảng: Lý do sinh viên không vào thư viện:Lý do sinh viên không vào thư viện Tần suất Phần trămGiá trị phần trămPhần trăm tích lũyGiá trị không có 8 8.0 57.1 57.124thời giankhông gian không thỏai mai6 6.0 42.9 100.0Tổng 14 14.0 100.0 Hệ thống bị thiếu 86 86.0 Tổng 100 100.0 Qua kết quả điều tra cho thấy có 14/100 bạn sinh viên chưa vào thư viện. Trong đó có 8 bạn cho rằng không có thời gian, chiếm 57,1%. 6 bạn cho rằng không gian không thoải mái, chiếm 42,9%. Lên thư viện một số bạn sinh viên cảm thấy gò bó, thiếu năng động. Một ngày sẽ tẻ nhạt biết bao nếu sinh viên chỉ biết cắp cặp lên thư viện, ngồi đọc sách cả ngày rồi lại cắp cặp về. Vì thế, sinh viên cần lên kế hoạch lên thư viện hợp lí, không cần phải lúc nào cũng chăm chăm lên đó đọc sách. Một số sinh viên ngày nay không mấy mặn mà, hứng thú với việc đọc sách, nghiền ngẫm những cuốn sách, tài liệu trên thư viện…Sự phong phú, tràn ngập của vô số kênh thông tin trên mạng Internet, trên truyền hình… đã làm cho họ không còn đủ sự kiên nhẫn để tìm kiếm những cuốn sách hay, những tư liệu tốt. Sinh viên ngày nay có rất nhiều phương tiện thông tin giải trí khác ngoài việc học. Nhiều bạn sinh viên mất hàng giờ ngồi trong quán Game – Internet vì cho rằng ở đó không gian thoải mái hơn. Nhờ tính cập nhật, nhanh và giao diện bắt mắt kèm theo những hình ảnh minh họa độc đáo mà các phương tin thông tin ngày nay được giới trẻ rất ưa chuộng. Họ lên mạng Internet tìm kiếm thông tin, đápứng nhu cầu giải trí. Nhiều sinh viên thường chỉ có thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà không tận dụng được hết những tiện ích, những mặt tích cực của Internet đem lại 25