Các phương pháp dạy học đặc trưng

Điểm chung nhất của các phương pháp dạy học tích cực

Đặc điểm chung của các phương pháp dạy học tích cực là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Tính tích học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn…

1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS

Trong PPDH tích cực, người học- đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chú thể của hoạt động “học”- được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của minh, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.

Dạy theo cách này, GV không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động, chương trình dạy học phải giúp cho từng HS biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.

2. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học

Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả day học mà còn là một mục tiêu dạy học.

Trong xã hội hiện đại đang biến đối nhanh – với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét vào đầu óc HS khối lượng kiến thức ngày cầng nhiều. Phải quan tâm dạy cho HS phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và cầng lên bậc học cao hơn cầng phải được chú trọng.

Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nên rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. vì vậy, ngày nay, người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của GV.

3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác

Trong một lớp học, trình độ kiến thức, tư duy của HS không thể đồng đều tuyệt đối nên khi áp dụng phương pháp tích cực buộc GV và HS phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.

Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hoá này cầng lớn. Việc sử dụng các phương tiện CNTT trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mọi HS.

Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, tạo nên mọi quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.

Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách, năng lực của mọi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lào động xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho HS.

4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò

Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

Trước đây GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong phương pháp tích cực, GV phải hướng dẫn HS phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS.

Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghĩ với đời sống xã hội thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.

Với Sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra, đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với GV, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.

Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, mà trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội dung học lập, chú động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, HS hoạt động là chính, GV có vẽ nhàn nhã hơn. Nhưng khi soạn giáo án, GV phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiễu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của HS. GV phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của HS mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của GV.

- PP DHTC có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học mà trong đó tư duy độc lậpsáng tạo vừa là phương tiện vừa là mục đích của quá trình dạy học.- PP DHTC có yêu cầu cao đối với người dạy và người học.- PP DHTC giúp học sinh nắm chắc kiến thức, nhớ lâu, đảm bảo sự cá thể hoá,tập trung vào người học.- PP DHTC có thể áp dụng rộng rãi cho nhiều môn học, nhiều dạng bài học ởnhững mức độ khác nhau.1.2.3. Bản chất của PP DHTCBản chất của quá trình DHTC là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đàotạo, quá trình truyền thụ kiến thức của thầy thành quá trình tự học của sinh viên. Giáoviên tạo nên những tình huống có vấn đề sinh viên chấp nhận các tình huống đó là cầnthiết, sinh viên tự tìm tòi, nghiên cứu, chủ động hợp tác dưới sự tổ chức, điều khiển, cốvấn của thầy để tìm ra kiến thức mới.1.2.4. Quan điểm về dạy học tích cực và phương pháp dạy học tích cựcBản chất của dạy học tích cực là đề cao chủ thể nhận thức, chính là phát huytính tự giác, chủ động của người học. Tích cực là một nét quan trọng của tính cách,theo Kharlanôp: “tích cực trong học tập có nghĩa là hoàn thành một cách chủ động, tựgiác , có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sang kiến và đầy hào hứng, những hànhđộng trí óc và tay chân nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng chúng vàohọc tập và thực tiễn” . Như vậy tích cực là một đức tính quý báu rất cần thiết cho mọiquá trình nhận thức, là nhân tố quan trọng tạo nên hiệu quả dạy học.Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học theo hướng pháthuy tính chủ động, độc lập, hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhậnthức của người học. Phương pháp dạy học tích cực có những đặc trưng cơ bản là:- Người học tập trung cao độ trong học tập, chủ động tìm tòi, khám phá nội dunghọc tập, chủ động giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đềxuất các ý tưởng sang tạo và tự nguyện trình bày, diễn đạt các ý kiến của mình. Theo líthuyết kiến tạo, phương pháp dạy học tích cực chính là giúp cho “người học tự xâydựng những cấu trúc trí tuệ riêng cho mình về những tài liệu học tập, lựa chọn những16 thông tin phù hợp, giải nghĩa thông tin dựa trên vốn kiến thức đã có và nhu cầu hiệntại, bổ xung thêm những thông tin cần thiết để tìm ra ý nghĩa của tài liệu mới” [Shuell,1993] , người học chính là chủ thể của quá trình nhận thức.- Người dạy: linh hoạt, mềm dẻo, luôn tạo cơ hội để người học tham gia vfa làmchủ hoạt động nhận thức. Người dạy xây dựng được những môi trường có khả năngthúc đẩy người học tự điều khiển hoạt động học tập, cung cấp những nhiệm vụ học tậpcó mức độ phù hợp với từng HS, tạo điều kiện cho từng HS được phép lựa chọn, tự lậpkế hoạch, tự đưa ra mục đích hoạt động, tự mình hoặc hợp tác để thực hiện nhiệm vụhọc tập, cuối cùng tự nhận xét, đánh giá kết quả học tập của bản thân. Người dạy chỉ làngười tổ chức và hướng dẫn qua trình nhận thức.- Nội dung bài dạy không đi sâu vào từng chi tiết cụ thể mà sắp xếp thành cácvấn đề lien kết hoặc sắp xếp theo nguyên lí cơ chế để kích thích tư duy và tính chủđộng sáng tạo trong cách giải quyết các vấn đề của người học.Trong luật giáo dục nước ta, điều 36b cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo dục đạihọc phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện chongười học phát huy tư duy sáng tạo, rèn luyện kĩ năng thực hành tham gia nghiên cứu,thực nghiệm, ứng dụng”, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học ởđại học chính là thực hiện luật giáo dục.1.2.5 Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của sinh viênTrong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động họctập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mìnhchưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt.Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảoluận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừanắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩnăng đó, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năngsáng tạo.17 Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà cònhướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng sinh viên biết hànhđộng và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học,kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinhkhối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháphọc ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyệncho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họlòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ đượcnhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúatrình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động,đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà saubài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.1.2.6 Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tácTrong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của sinh viên không thể đồngđều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóavề cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kếthành một chuỗi công tác độc lập.Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này cànglớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứngyêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi sinh viên.Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều đượchình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếpthầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếmlĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cánhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trìnhđộ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầygiáo.18 Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớphoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết nhữngvấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thànhnhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tínhcách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức,tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm chocác thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liênquốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phảichuẩn bị cho sinh viên.1.2.7. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của tròTrong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thựctrạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận địnhthực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tíchcực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnhcách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để sinh viênđược tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời lànăng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho họcsinh.Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con ngườinăng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thểdừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyếnkhích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là mộtcông việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linhhoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.19 Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vaitrò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức,hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnhnội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầucủa chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơnnhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiềuso với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là ngườigợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng,tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, cótrình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinhmà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.1.3 NHỮNG KHÓ KHĂN KHI ÁP DỤNG PP DHTC1.3.1. Những rào cản của việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cựcGiáo viên ngại thay đổi cách làm việc đã thành nếpGiáo viên ngại với việc nâng cao kỹ năngPhương pháp dạy học mới đòi hỏi người thầy phải:- Hiểu sâu sắc nội dung lý thuyết- Từng trải trong vận dụng thực tiễn hoặc ít nhất cũng từng học hỏi người khácvận dụng như thế nào.- Phải hy sinh tâm lực và thời gian để dàn dựng bài giảng, tìm ra những câu hỏitinh tế, những đề tài thảo luận hấp dẫn, lôi kéo người học vào tư duy tích cực.Đối với học sinh: Trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng củahoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học,dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình vềkiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mìnhđược. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không cóphương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.20 1.3.2. Những quan niệm sai lầm- Quan niệm sai lầm thứ nhất là:Nếu thầy giỏi về kiến thức chuyên môn thì thầy sẽ dạy giỏi. Về sự quan trọngcủa kiến thức chuyên môn thì chúng ta không ai có thể phủ nhận được. Nhưng chúng tacũng nên hiểu rõ rằng, kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần để giảng dạygiỏi chứ không phải là điều kiện đủ.Nói tóm lại: Thầy kém chuyên môn thì không thể dạy giỏi nhưng Thầy giỏichuyên môn thì chưa chắc đã dạy giỏi.- Quan niệm sai lầm thứ hai là:Thầy chỉ cần dạy cho sinh viên về nội dung chuyên môn càng nhiều càng tốt. Ngoài rakhông cần gì nữa!Quan niệm này trong thế giới hiện đại hết sức không đầy đủ. Chúng ta biết rằng, kiếnthức của nhân loại nói chung và trong mỗi ngành khoa học nói riêng là rất nhiều, nếu nhưkhông nói là vô cùng. Quan niệm này dẫn đến việc thầy giáo bị một sức ép là cần dạy mộtkhối lượng nội dung lớn, trong khi số tiết học dành cho môn học không được tăng thêm.Điều này giải thích tại sao khi xây dựng chương trình, ngành nào cũng kêu rằng số tiết dànhcho môn học của mình quá ít. Nhà sư phạm Lagowski cho rằng: Nếu quan niệm dạy học làdạy kiến thức cần cho sinh viên khi ra trường thì làm sao nhà trường có thể dạy đủ dù chỉ50% - 60% kiến thức cần thiết cho một sinh viên làm việc trong 35 – 38 năm.-Quan niệm sai lầm thứ ba là:Người dạy giỏi là người có khả năng bẩm sinh. Quan niệm này dẫn tới phủ nhận việccải tiến phương pháp dạy nói chung và khả năng cải tiến phương pháp giảng dạy của nhữnggiáo viên dạy yếu.1.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ SỬ DỤNG PP DHTC1.4.1. Sử dụng PP DHTC trên nền tảng lý luận và phương pháp giảng dạyphù hợp với bùng nổ thông tin.Với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin [ICT- Information andCommunication Technologies ], khối lượng thông tin và tri thức đang tăng theo hàm21

Video liên quan

Chủ Đề