Cảm nhận về đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương

Đề bài: Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương

Văn mẫu phân tích vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Mẹo Phương pháp phân tích đoạn thơ hay, gây ấn tượng cho người chấm

Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" là một bài thơ tiêu biểu trong cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, bài thơ mang ý nghĩa là lời chia tay, từ biệt bạn bè và đồng chí để lên đường sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du. Bài thơ là một bài ca hào sảng về lí tưởng yêu nước cao cả, khí phách anh hùng và khát vọng cứu nước đầy nhiệt huyết của Phan Bội Châu, đặc biệt bài thơ có sức lay động mạnh mẽ nhờ vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình.

Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được bộc lộ rất rõ nét trong bài thơ, đầu tiên là quan điểm mới mẻ của Phan Bội Châu về chí làm trai:

"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời."

Có thể nói đây là một quan niệm mới mẻ và táo bạo về chí làm trai của nhân vật trữ tình, sinh ra làm đấng nam nhi phải có cái "lạ", nghĩa là phải làm được những điều phi thường, hơn người. Phải là người chủ động, quyết định tương lai và chí hướng của mình, không phụ thuộc và bị tác động bởi hoàn cảnh, thời thế. Làm trai trước hết phải có sự nghiệp anh hùng, phải tự tin và lạc quan để mưu đồ nghiệp lớn, đây là một lẽ sống đẹp, thể hiện một vẻ đẹp tâm thế lẫm liệt, phi thường, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ.

"Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Say này muôn thuở há không ai?"

Vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của Phan Bội Châu còn được hình tượng hóa qua tầm vóc của con người trong vũ trụ, ý thức tự giác trước trách nhiệm của mình đối với thời thế và cuộc đời. Nhà thơ khẳng định dứt khoát một sứ mệnh của bản thân, đó là cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ, trong khoảng trăm năm phải để lại tên tuổi vẻ vang, không chịu ở trong đám tầm thường, Phan Bội Châu không phủ nhận những anh hùng khác, mà chỉ không coi anh hùng là cá nhân duy nhất, đồng thời động viên thế hệ trẻ hãy hướng đến tương lai. Có thể thấy, nhà chí sĩ có một ý thức trách nhiệm công dân rất cao cả, chính đáng, xuất phát từ chính lòng yêu nước sôi sục và tha thiết.

"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông."

Phan Bội Châu chỉ ra rõ mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước, vai trò của cá nhân đối với vận mệnh đất nước, cũng như nhận thấy rõ bối cảnh thời cuộc, ông cho rằng sách vở thánh hiền trong thời buổi bây giờ không có tác dụng gì khi nước mất nhà tan. Đây là một thái độ phủ nhận có phần gay gắt nhưng cũng cho thấy tư tưởng tiến bộ, tiên phong của Phan Bội Châu, ông nói về nỗi nhục mất nước nhưng cũng hé mở con đường để rửa nỗi nhục đó.

"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi."

Để có thể thực hiện được trách nhiệm lớn lao của mình, nhân vật trữ tình đã dấy lên khát vọng về một chuyến đi bất chấp khó khăn gian khổ. Những hình ảnh kì vĩ lớn lao như: "vượt bể Đông", "cánh gió", "muôn trùng", "sóng bạc" đã diễn tả một tư thế hăm hở, đầy tự tin và lạc quan vào một tương lai tươi sáng đang chào đón. Khát vọng lớn lao rất tương xứng với một tư thế hào hùng của nhà chí sĩ trong buổi lên đường, con người như được hòa nhập vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của vũ trụ, "muôn trùng sóng bạc" đã hòa chung vào sự thăng hoa khí thế anh hùng, cùng hòa nhịp đập với trái tim sôi sục của nhân vật trữ tình.

Qua bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương", tác giả Phan Bội Châu đã tạo dựng rất thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng yêu nước với vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn khiến bài thơ trở thành một bài tráng ca, khúc hát lên đường đầy hào sảng của người anh hùng suốt một đời không biết mỏi mệt vì đất nước, nhân dân.

--------------- HẾT ----------------

Trên đây là một vài gợi ý về cách phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, giúp các em ôn tập, làm tốt các đề văn yêu cầu phân tích đoạn văn, đoạn thơ của mình. Tiếp theo, để hiểu rõ về rõ nét chân dung tính cách, tâm hồn, ý chí mạnh mẽ của tác giả Phan Bội Châu và những người trí thức cách mạng thời bấy giờ, các em có thể tham khảo các bài mẫu Phân tích hình tượng người chí sĩ yêu nước trong bài Lưu biệt khi xuất dương, Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, Cảm nhận bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu,...

"Xuất dương khi lưu biệt" là tiếng nói đầy tự hào của người chí sĩ yêu nước nuôi chí lớn, dám xả thân vì sự nghiệp cứu nước của dân tộc. Tham khảo bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương sẽ giúp các em hiểu hơn về chí khí và tinh thần của nhà yêu nước Phan Bội Châu đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà.

Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến Phân tích bài thơ Vọng nguyệt của Hồ Chí Minh Chất thơ trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam Phân tích nhân vật trữ tình trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả và tác phẩm: “Xuất dương lưu biệt” là một bài thơ đặc sắc của Phan Bội Châu.

- Giới thiệu vấn đề: Một trong những yếu tố làm nên điều đó chính là vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét qua bài thơ.

2. Thân bài

- Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được thể hiện qua tư duy mới mẻ và những khát vọng lớn lao, mạnh mẽ:

- Quan niệm mới mẻ và chí làm trai (hai câu đầu): phải làm được những điều phi thường, mạnh mẽ. Mỗi người phải tự quyết định tương lai của mình, phải trở thành người chủ động trước thời thế chứ không thụ động hay phụ thuộc vào hoàn cảnh.

=> Ý chí hào hùng của nam nhân mọi thời đại.

- Tầm vóc của con người trong vũ trụ và sự tự ý thức về trách nhiệm lớn lao của mình: làm những điều to lớn, giúp ích cho đất nước, để lại tên tuổi cho đời sau. => Sự tự tin đã làm nên vẻ đẹp lãng mạn và sự ý thức về tầm vóc lớn lao đã tạo nên vẻ đẹp hào hùng cho nhân vật trữ tình.

- Những khát vọng mạnh mẽ, táo bạo về một cuộc ra đi hoành tráng: Con người như hòa quyện vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của bức tranh. Khí thế của con người lan tỏa ra muôn trùng con sóng bạc và chính những con sóng cũng cùng hòa chung một nhịp đập với trái tim sôi sục, cháy bỏng của con người.

- Qua quan niệm, tư tưởng và tầm vóc của con người, bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn của nhân vật trữ tình. Những khát vọng mạnh mẽ đã trở thành nhựa sống rào rạt chảy trong suốt bài thơ.

- Vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng được xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc:

+ Giọng thơ nhiệt thành, sôi sục và có lúc thiết tha, rạo rực.

+ Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hùng vĩ. Những hình ảnh lớn lao liên tục xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ như “càn khôn”, “trăm năm”, “non sông”, “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc”,…đã chắp thêm đôi cánh cho những ước vọng lãng mạn, mạnh mẽ, táo bạo.

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Bài mẫu

   Xuất dương lưu biệt không những là một bài thơ hay, mà còn là một mốc quan trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sôi nổi cùng thơ văn cổ động lòng yêu nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.

   Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước còn biết bao khó khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hanh phúc được vẫy vùng. Sau một thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả, Phai Bội Châu đã trăn trở suy tư để tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Đến năm 1905 ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:

Làm trai há phải lạ trên đời.

Há đế càn không tự chuyển dời.

   Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu

Hay trong thơ của Nguyễn Công Trứ.

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.

   Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã là con người sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam nhi cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ cửa Phan Bội Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào để trời đất chuyền vần lấy sao. Nghĩa là Phan Bội Châu đã thoát ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Xưa kia người anh hùng tiết tháo Đặng Dung chua chát nhận ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố quyết định nên sự thành bại. chứ không phải do tài năng của bản thân:

Thời lai đồ điếu thành công dị.

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

(Gặp thời thì anh hùng thật, người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng / vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).

    Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ông đặt con người ngang tầm với càn khôn (đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thi cớ gì con người không xoay vần được càn không. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc do con người, nhưng thành công là bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập chuyện thành bại ở đây nhưng ý chí dám xoay lại càn khôn thì không chỉ là ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên mệnh là bước đột khởi để người chí sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của mình. Sau khi so mình với càn khôn, tác giả lại so mình với đồng loại:

                                                          Ưu bách niên trung tri hữu ngã

                                                          Khởi  thiên tải hậu cánh vô thùy

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thuở há không ai?).

   Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuảt chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền Công Trứ.

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải cỏ danh gì với núi sông.

   Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Cháu không coi mình Là duy nhất.

   Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự dổi mới của tư tưởng nhận thức.

   Non sông đã chết sống thêm nhục Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

   Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận cùa mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyên Khuyến hay Tú Xương:

Sách vở ích gì cho buổi ấy

   Hay:

Ông nghè ông cống cũng nằm co.

   Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi tong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi.

   Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:

   Muốn vượt biển đông theo cách gió Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

(Nguyện trục trường phong đông hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).

   Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua tài

   Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.

   Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.

   Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á - tế - á - ca), sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muôn hát vang chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguvền Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Loigiaihay.com