Chủ nghĩa duy tâm là gì có mấy hình thức

Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận [physicalism] với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất.

Cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật để được hình thành và phát triển vói ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này để lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới

– Ưu điểm: Lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng Đế.

– Hạn chế: Những lý giải về thế giới còn mang nặng tính trực quan nên những kết luận về thế giới về cơ bản còn mang tính ngây thơ, chất phác.

– Ví dụ: Quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit

Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII và đỉnh cao vào thế kỉ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kì mà cơ học cổ điển thu được những thành tựư rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển. Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây ra

– Tích cực: Góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu

Xem thêm: Cơ sở lý luận, nội dung nguyên tắc khách quan trong Triết học

– Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát triển

– Ví dụ: Các quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác và Ănghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đ• khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hoá những tri thức của nhân loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận chung, đồng thời định hướng cho các lực lượng x• hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình

– Tích cực: Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân  nó tồn tại, là công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạ hiện thực ấy

– Hạn chế:

– Ví dụ:

Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua các hình thức lịch sử của nó, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Bên cạnh những mặt khác nhau, cả 3 hình thức trên đều thống nhất ở cùng một đặc điểm đó là: Khi giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học đều khẳng định vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Xem thêm: Phạm trù triết học là gì? Các cặp phạm trù cơ bản của Triết học?

Giáo trình triét học Mác Lênin, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009

Giáo trình Triết học Mác – Lênin [Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, nxb CTQG, Hà Nội 1999

www.wikipedia.com.vn

Câu1 :Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm?

Trả lời:

*Chủ nghĩa duy vật là gì?

Khi một triết gia quan niệm bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức của con người thì triết gia đó được xem là một nhà duy vật. Học thuyết của họ được hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.

Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản:

1. Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Họ quan niệm sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên. Những lý giải của họ còn mang nặng tính trực quan nên những kết luận của họ về thế giới cơ bản còn mang tính chất ngây thơ, chất phác.

2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là kết quả của thời kỳ Cơ học cổ điển. Thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của tư duy siêu hình, máy móc của Cơ học cổ điển. Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình thì thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây nên.

3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là sự kế thừa những tinh hoa và khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức tồn tại trong thế giới khách quan.

*Chủ nghĩa duy tâm là gì?

Khi một triết gia quan niệm bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức là cái có trước và quyết định vật chất của con người thì triết gia đó được xem là một nhà duy tâm; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản:

1. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là "phức hợp các cảm giác" của cá nhân.

2. Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên của con người. Theo các nhà duy tâm khách quan, thực thể tinh thần, ý thức ấy chính là: "ý niệm tuyệt đối" [*], "tinh thần tuyệt đối"...

[*] Ý niệm tuyệt đối:

Theo Hegel: ""ý niệm tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự tha hóa thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. "Tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm""

Thể hiện sự thần bí và có trước tự nhiên và con người. "Ý niệm tuyệt đối" hoạt động trong tư duy tự nhận thức về mình; nó bao hàm những mâu thuẫn nội tại, vận động và biến đổi thành cái đối lập của chính mình. "Ý niệm tuyệt đối" phát triển theo ba cấp [tam đoạn thức]

1. Cấp logic: Chưa có thế giới - "Ý niệm tuyệt đối" chỉ hoạt động tư duy với tính chất một hệ thống logic gồm khái niệm và phạm trù.

2. Cấp Triết học tự nhiên: "Ý niệm tuyệt đối" chuyển hóa thành tự nhiên.

3. Cấp Triết học tinh thần: "Ý niệm tuyệt đối" phủ định tự nhiên, trở về bản thân - tiếp tục biến hóa nhưng chỉ trong tư duy con người. Cấp này bao gồm cả ý thức cá nhân và ý thức xã hội, nó đạt đến nhận thức cao nhất qua tôn giáo, nghê thuật, triết học học.

=> "Ý niệm tuyệt đối" phát triển lên thì sinh ra tự nhiên, xã hội, con người...

HomeBài viếtChủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là gì?

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia các học thuyết triết học thành hai tr­ờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

 a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có tr­ớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ng­ời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con ng­ười; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.

Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại d­ới nhiều hình thức khác nhau.

+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ nh­ quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh h­ởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của ph­ơng pháp t­ duy siêu hình, máy móc - ph­ơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nh­ng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh­ quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đ­ợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học tr­ớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đ­ơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đ­ợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tr­ớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực l­ợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

 b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có tr­ớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.

Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:

 + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ng­ời, khẳng định mọi sự vật, hiện t­ợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nh­ng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có tr­ớc và tồn tại độc lập với con ng­ời, quyết định sự tồn tại  của tự  nhiên, xã hội và t­ duy. Nó th­ờng đ­ợc mang những tên gọi khác nhau nh­ ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.

Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực l­ợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực l­ợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức [mặt hình thức], tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.

Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t­ duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t­ t­ởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.

c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận[duy vật hoặc duy tâm] giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát  từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi hiện t­ợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nh­ng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.


Đọc và thảo luận TRIẾT HỌC KỲ THÚ trên Telegram

Video liên quan

Chủ Đề