Chủ nghĩa hiện thực trong văn học phương Tây

Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo [Magic realism] là một trường phái quan trọng trong văn học đương đại châu Mĩ la tinh, và là một trong những trường phái chủ yếu của văn học hiện đại phương Tây.

Năm 1925, trong cuốn “Một số vấn đề về Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo – Chủ nghĩa biểu hiện hậu kì – Hội họa châu Âu đương đại” nhà phê bình nghệ thuật người Đức Franz Roh chỉ ra thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” ban đầu không phải là một trường phái văn học, mà là trường phái hội họa hiện đại phương Tây có nét đặc sắc về phong cách. Sau đó, phải đến khi có sự phiên dịch, chuyển tải của tạp chí Phương Tây ở Tây Ban Nha mới thâm nhập vào lĩnh vực ngữ văn học Tây Ban Nha bao gồm nội bộ châu Mĩ la tinh. Ở Tây Ban Nha, lần đầu tiên thuật ngữ này được dùng là nhà văn Venezuela Arturo Uslar Pietri.

Năm 1930 nhà văn Guatemala Asturias phát biểu trong tập truyện ngắn Truyền thuyết Guatemala, được xem là tập truyện ngắn đầu tiên ở châu Mĩ la tinh mang sắc thái của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là trường phái văn học hình thành và phát triển trong khoảng những năm 40 đến những năm 50 của thế kỉ 20. Thế kỉ 20 là thế kỉ liên tục nổ ra hai cuộc đại chiến thế giới, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10, nguy cơ kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản, đại cách mạng Mexico, những sự kiện này không chỉ mang đến thế giới phương Tây mà còn thức tỉnh quần chúng nhân dân châu Mĩ la tinh, họ nhận thấy lợi ích của các nước châu Mĩ la tinh là thống nhất trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột của nước ngoài, bảo vệ quyền lợi dân tộc, đây chính là bắt đầu hình thành “ý thức châu Mĩ la tinh”, nó kích thích nhiệt tình sáng tác của các nhà văn châu Mĩ la tinh. Châu Mĩ la tinh là một khu vực hỗn tạp dân tộc, gồm người Anhdieng, người da đen châu Phi và dân ở các nước châu Âu di cư sang.

Kết cấu những tộc người này đã làm cho các đô thị hiện đại xuất hiện ở châu Mĩ la tinh cùng tồn tại với các bộ lạc nguyên thủy, sắc thái kì dị, thần bí bao trùm lên châu lục. Kết cấu dân tộc này cũng là một trong những điều kiện làm nảy sinh chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ngoài ra, ảnh hưởng của văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây cũng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực huyền ào.

Nhà phê bình Argentina Mansoor khi bàn luận về tác phẩm của nhà văn Mexico Rulfo đã nói: “huyền ảo trong tác phẩm của Rulfo được sinh ra từ sự ngang bằng của hai hệ thống giá trị văn hóa, tức là hai loại hiện thực [hàng ngày] và thần thoại. Nhà phê bình này nhấn mạnh: tiểu thuyết Peidela.Balamo của Rulfo mâu thuẫn đối lập, tương phản cùng xuất hiện: sinh – tử, hiện tại – hồi ức, thời gian – phi thời gian, điều này tạo ra một số hiệu quả, như cái chết của nhân vật có thể không dừng lại ở một lần; thời gian có thể trôi đi, cũng có thể dừng lại ứ đầy; không gian có thể kéo dài, cũng có thể thu lại….

Từ tiền đề này, hành vi dư thừa của nó lại hợp logic và tự nhiên; là phù hợp với quan hệ nhân quả và chuyển biến của trần thuật vẫn bảo lưu được cục diện mà tình cảnh mở ra, tức là cục diện của “cái kì ảo”.[ Mansoor: Rulfo và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Xem Chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Nxb KHXH Trung Quốc, 1987, tr448-449].

Nhà văn Cuba Carpentier khi viết lời tựa cho cuốn Vương quốc của thế giới của mình đã không sử dụng “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” mà sử dụng “hiện thực thần kì”… Ông nói: thần kì là sự đột biến của hiện thực [tức là kì tích], là sự biểu hiện đặc thù đối với hiện thực, là sự thể hiện kì diệu khác biệt, phi thường đối với tính phong phú của hiện thực, là cường điệu quy mô và trạng thái của hiện thực.

Sự phát hiện hiện thực thần kì này mang đến cho người người sự hưng phấn tinh thần đến cực điểm”. Ông còn nói: “thần kì dựa theo sự kiện được ghi lại nguyên bản xuất hiện một cách tự nhiên. Điều hiển nhiên được chỉ ra là, cuốn tiểu thuyết này được viết ra sau khi đã nghiên cứu tường tận tư liệu lịch sử, không chỉ tôn trọng chân thực lịch sử, sử dụng tên người có thực [bao gồm tên nhân vật thứ yếu], địa danh, đường phố, mà còn trong tính siêu thời gian của sự biểu hiện trình bày ra khoảng thời gian, niên đại được tính toán một cách cẩn thận.

Như vậy, do những sự kiện này rất kì lạ, độc đáo và giàu tính kịch, do thái độ của các nhân vật xen kẽ nhau ở chân trời góc bể nào đó là rất li kì làm cho sắc thái thần kì trở nên phong phú”[ Carpentier: Tiểu thuyết là một nhu cầu. Nxb Nhân dân Vân Nam, 1995, tr82-85]. Trong cách nói này có thể thấy, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đã có đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực, nó kế thừa truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học châu Mĩ la tinh, kiên trì phản ánh cuộc sống hiện thực ở châu lục, đồng thời lại có đặc trưng phi hiện thực chủ nghĩa, hấp thu truyền thuyết thần thoại trong văn hóa Indian cổ đại làm phong phú thêm nội dung biểu hiện của tác phẩm; hơn nữa lại còn có đặc trưng phản hiện thực chủ nghĩa, tiến hành hàng loạt những thí nghiệm phản truyền thống, tuân theo nguyên tắc phi lí tính. Trong sáng tác, nó kết hợp việc truy tìm hiện thực và hình tượng ảo, hoặc biến hiện thực thành thần thoại, hoặc biến hiện thực thành mộng ảo, mộng cảnh, hoặc trong cuộc sống hiện thực cấy ghép sự vật mang sắc thái mộng ảo làm tăng sức biểu hiện cho tác phẩm.

Tất cả những điều này đều là đặt hiện thực vào trong vùng khách quan với hoàn cảnh và không khí huyền ảo, gia tăng miêu tả tường tận, nỗ lực khoác lên hiện thực cái áo huyền ảo kì quặc, nhưng từ đầu đến cuối không hề tổn hại đến bản chất của hiện thực. Trên phương diện kết cấu, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo phá vỡ trật tự tự nhiên của chủ quan và khách quan làm cho không gian, thời gian xếp đặt loạn xạ, đan xen thần thoại và hiện thực, thực cảm và huyễn cảm, người và quỷ, phần lớn dùng thủ pháp nghệ thuật tượng trưng, ám thị, so sánh, thay thế…trong sắc thái mung lung, huyền ảo, thần bí bao hàm nội dung đa dạng.

Trăm năm cô đơn của G.Marquez xuất bản năm 1967 được coi là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, vì tác phẩm này không chỉ tái hiện lịch sử hơn 100 năm của làng Macondo, mà từ những góc độ khác nhau phản ánh hiện thực xã hội và diễn biến lịch sử của Columbia và toàn bộ châu Mĩ la tinh, tính hiện thực rất cao; bộ tiểu thuyết này còn vận dụng thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa huyền ảo, làm cho hiện thực và kì ảo, sự kiện con người và hình tượng kì dị, tập tục và thần thoại kết hợp với điềm báo, cảm ứng, người chết có thể sống lại, mưa hoa từ trên trời xuống, tấm thảm có thể bay, thiếu nữ có thể lên trời, tác phẩm kì quái, mơ hồ khó hiểu.

Văn học chủ nghĩa hiện đại là sản phẩm của xã hội hiện đại phương Tây, nội dung tư tưởng trong tác phẩm có ý nghĩa nhất định đối với việc nhận thức xã hội hiện đại phương Tây và những thói xấu của nó. Chủ nghĩa hiện đại một mực biểu hiện sự biến dạng, dị hóa của con người, phân tích sự chấn động tâm lí, phân tích bí ẩn biểu hiện con người, những thứ thể hiện dưới tầng ý thức. Về thủ pháp biểu hiện nghệ thuật, chủ nghĩa hiện đại sử dụng rất nhiều thủ pháp như độc thoại nội tâm, liên tưởng tự do, đảo lộn không gian, thời gian kết cấu đa tầng, trần thuật từ nhiều góc độ, có thể trở thành bài học để chúng ta phát triển văn học đương đại; nhưng, lối viết tự động, ghi chép giấc mơ, không tiêu điểm của chủ nghĩa hiện đại…lại đi ngược lại với những quy luật nghệ thuật trong sáng tạo văn học, tổn hại đến hình tức nghệ thuật của sáng tạo văn học.

S.T

Tags: Văn học, Trào lưu nghệ thuật

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TÂY ÂU Chương 2. [Từ giữa thế kỉ 19 đến những năm 60] 2.1 Văn học Pháp Văn học hiện thực Pháp xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung hưng, phát triển mạnh mẽ cho đến những năm 60, có thể chia ra hai giai đoạn: tr ước và sau năm 1848. Sau cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830, chính quyền thuộc về giai cấp đại t ư sản mà Marx gọi là bọn “quí tộc tài chính”. Đồng tiền thống trị mọi lĩnh vực xã hội với quyền lực và sức mạnh tha hóa của nó. Cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra và giai cấp công nhân dần dần trưởng thành đã dẫn tới cuộc Cách mạng tháng Sáu năm 1848. Đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của trào lưu văn học hiện thực với những nhà văn ưu tú: Stendhale, Balzac, Merimee. GIAI ĐOẠN 1 Stendhale [1783 – 1842] Xuất thân trong một gia đ ình trí thức. Ông rất thích âm nhạc, hội hoạ và văn chương Italia. Đối với Napoleon I, ông vừa khâm phục tài năng vừa phê phán sự tàn bạo của nhà độc tài. Năm 1814, ông bắt đầu viết một số tác phẩm nghiên cứu về âm nhạc và hội hoạ. “Tiểu luận về tình yêu” [1822] phân tích diễn biến quá trình yêu đương khi ông đeo đuổi một thiếu phụ xinh đẹp ở Milan. Năm 1823, Stendhale xuất bản tiểu luận “Racine” và “Shakespeare” trong đó ông đứng về phía các nhà văn lãng mạn chống lại những qui tắc lỗi thời của chủ nghĩa cổ điển. Tóm tắt các luận điểm của ông như sau : Phân tích tính chất lịch sử của lí tưởng thẩm mĩ Đưa ra những qui tắc nghệ thuật kịch nói, nhấn mạnh chỉ cần tôn trọng qui tắc “duy nhất về hành động”. Viết kịch bằng văn xuôi cho giản dị và tự nhiên. Học tập thực chất của Shakespear “điều cần bắt chước con người vĩ đại đó là cách nghiên cứu, quan sát thế giới trong đó ta đang sống”. Yêu cầu nghệ thuật phải thể hiện nồng nhiệt và chính xác những niềm say mê bằng một hình thức trong sáng. Nghệ thuật phải gắn bó với chính trị như trước kia chủ nghĩa cổ điển đi với chế độ quân chủ và giai cấp quí tộc, còn chủ nghĩa lãng mạn đi với cách mạng. Khái niệm “chủ nghĩa lãng mạn” [romanticisme] mà Stendhale dùng ở đây có khác với khái niệm “romantisme” của các nhà văn lãng mạn đương thời .Nội dung khái niệm mà Stendhale dùng lại là khuynh hướng “hiện thực chủ nghĩa” đang hình thành mà ông là cây bút đầu tiên. Stendhale đã viết một số tiểu thuyết, tiêu biểu là ba tác phẩm “Đỏ và đen” [1830], “Tu viện thành Pacmer” [1839] và “Lucien Lewel” [1835]. “Đỏ và đen” là một tác phẩm hiện thực xuất sắc khi tác giả xâ y dựng tính cách điển hình Julien Sorel hình thành và phát triển trong hoàn cảnh điển hình. Những sự kiện chính của xã hội Pháp thời Trung hưng được miêu tả cụ thể, chân thực. Tính cách của các nhân vật Julien Sorel con ông thợ xẻ, vợ chồng thị trưởng De Renald, hầu tước De La Mole và con gái Mathildez…đều được xây dựng phong phú, sinh động với nghệ thuật P HN-VHPT 2 trang 37
  2. phân tích tâm lí tài tình của Stendhale. Tác giả không thích giải thích ý nghĩa của nhan đề tiểu thuyết “Đỏ và đen”. Nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu đã giải thích khác nhau. Đỏ và đen ám chỉ sự may rủi, đỏ đen của nhân vật trung tâm; hoặc đỏ và đen là hai mặt của tính cách Sorene; hoặc đó là hai mặt tương phản của cách mạng màu đỏ và tội ác phản động màu đen; hoặc màu đỏ là màu đồng phục của sĩ quan thời Napoleon, màu đen là màu áo choàng tu sĩ thời Trung hưng v.v…Cách lí giải nào cũng đều có ý nghĩa t ương đối phù hợp với diễn biến sự việc và các tính cách nhân vật trong tác phẩm. ĐỎ VÀ ĐEN [Le Rouge et le Noir] Chuyện xảy ra tại thành phố nhỏ Verie, có hai vợ chồng thị trưởng De Renald, lão Sorel làm nghề thợ xẻ, vị tu sĩ tốt bụng Selang, g ã tư sản Valeno giám đốc viện tế bần. Julien là con thứ ba của lão Sorel. Anh không có được thân thể lực lưỡng, cường tráng như hai anh trai, nhưng là một thanh niên thông minh, có mơ ước thoát ly địa vị thấp kém của giai cấp mình và chiếm một chỗ đứng trong xã hội quí tộc, tư sản thời kì Trung hưng lúc bấy giờ. Julien ham đọc sách, nhất là cuốn hồi kí của Hoàng đế Napoleon, một thần tượng ám ảnh đầu óc từ ngày còn bé, khi anh có dịp ngây ngất chứng kiến đo àn quân của Hoàng đế hùng dũng đi ngang qua. Nhưng rồi đế chế sụp đổ, Julien liền vào trường dòng mong tìm một con đường tiến thân hợp thời hơn. Đang lúc đó, thị trưởng De Renald mời anh đến nhà làm gia sư kèm cặp cho đứa con nhỏ. Julien nhận lời, hi vọng đây là một dịp bước chân vào thế giới thượng lưu và len lỏi kiếm chác địa vị. Tính t ình của Julien và lòng kiêu hãnh của anh đã làm xiêu lòng bà De Renald, một phụ nữ còn trẻ và giàu tình cảm. Quan hệ giữa hai người khiến cho dư luận dị nghị. Ông De Renald nhận được một lá thư nặc danh. Tuy không tin vào những lời đồn đại nhưng ông cũng quyết định cho Julien thôi việc để tránh tai tiếng. Đó cũng là “ý muốn” của bà De Renald vì bà bắt đầu cảm thấy lo sợ. Julien được tu sĩ Selang giới thiệu đi học ở Trường dòng Bizanson do linh mục Pira cai quản và chẳng bao lâu lại được linh mục tiến cử lên Paris làm thư kí riêng và thủ thư cho hầu tước De La Mole. Trước khi đi anh quay về Verie từ biệt bà De Renald và được bà giấu trong phòng riêng suốt cả đêm. Ở Paris, Julien được hầu tước De La Mole hết sức tin yêu và ban cho nhiều ơn huệ. Con gái hầu tước, cô Mathildez kiêu hãnh, cũng yêu Julien và không ngần ngại hiến thân cho anh. Dưới mắt cô, Julien không phải loại người tầm thường như bọn thanh niên quý tộc, hơn nữa lấy Julien cũng là một hành động khiến cho cô có thể trở nên khác người. Còn đối với Julien thì đây là một cơ hội tốt để leo lên bậc thang danh vọng. Mathildez có mang, liền thú thật với cha. Hầu tước De La Mole đành quyết định thay đổi họ cho Julien và chuẩn bị cuộc sống lứa đôi cho anh với con gái mình. Đang lúc đó thì bà De Renald bị một linh mục địa phương ép viết thư tố cáo Julien với hầu tước De La Mole. Câu chuyện hôn nhân bị cản trở. Julien tức giận liền quay về Ver ie, vào nhà thờ, dùng súng bắn bà De Renald hai phát, nhưng bà chỉ bị thương. Ở trong tù, Julien mới tỉnh giấc mộng danh lợi. Anh bị kết án tử hình. Cả bà De Renald và cô Mathildez đều vào trong tù thăm anh và vận động xin toà ân xá cho anh nhưng không kết quả. Cô Mathildez năn nỉ Julien chống án, anh không nghe theo. Ba ngày sau khi anh bị xử tử, bà De Renald đau buồn mà chết. Stendhale là nhà văn hiện thực lớn “nhân đạo một cách sâu sắc và có tính triết học” [M. Gorki], “là nhà tâm lí học vĩ đại nhất” [Ten]. Khi ông còn sống, rất ít người đọc tác phẩm của ông nhưng Balzac là nhà văn lớn duy nhất của thế kỉ đánh giá đúng đắn t ài năng của ông. P HN-VHPT 2 trang 38
  3. H’onore De Balzac [1799-1850] Là nhà văn hiện thực lớn nhất nước Pháp nửa đầu thế kỉ 19. Trong hai mươi năm, từ 1829 đến 1848, Balzac đã viết hơn 90 tác phẩm lớn nhỏ mà phần lớn được tập hợp thành bộ “Tấn trò đời”. Ngoài ra còn nhiều vở kịch và những “Truyện ngắn ngộ nghĩnh”. Khối lượng đồ sộ làm danh tiếng ông vang lừng khắp châu Âu. Balzac đã tự hào nói rằng “tôi mang cả một xã hội ở trong đầu của tôi”. Ông lui tới nhiều phòng khách [salon], hội Tao đàn, cộng tác với nhiều tờ báo; viết kịch và hoạt động sân khấu ; đi du lịch ở nhiều nơi ở trong và ngoài nước, hoạt động chính trị, gia nhập phái chính thống và ứng cử vào nghị viện v.v…Balzac quan hệ rộng rãi với nhiều phụ nữ và tỏ ra am hiểu phụ nữ sâu sắc qua nhiều hình tượng trong tác phẩm ông đã viết. Balzac cũng gặp nhiều trắc trở trong t ình yêu, mãi cho đến năm 1850 ông mới cưới bà Hanska, một phụ nữ quí tộc Nga gốc Ba Lan sau mười tám năm quen biết, thư từ qua lại. Balzac mất năm 51 tuổi vì làm việc quá nhiều. Ông đã thực hiện ước vọng trở thành “Napoleon trong văn học” bằng một sự nghiệp văn chương lớn lao, “Tấn trò đời” là một công trình toàn vẹn, mỗi tác phẩm trong đó là một đơn vị hoàn chỉnh, độc lập nhưng lại liên kết hữu cơ với các tác phẩm khác. Nhiều nhân vật sống luân lưu từ tác phẩm trước đến tác phẩm sau. Đó là bức tranh toàn cảnh xã hội Pháp từ năm 1818 đến 1848. “Lời nói đầu” của “Tấn trò đời” đã đúc kết quan điểm sáng tác và phương pháp nghệ thuật hiện thực của Balzac. Do sự so sánh nhân loại học với động vật học, ông đã bộc lộ quan điểm duy vật khi ông nhận thức được ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con người : “Tình trạng xã hội có những điều ngẫu nhiên mà tự nhiên không thể có, bởi vì tình trạng xã hội là tự nhiên cộng với xã hội” “Xã hội Pháp là nhà sử học, tôi chỉ làm người thư kí. Tiểu thuyết sẽ chẳng là gì cả nếu trong sự nói dối trang nghiêm ấy thiếu sự thật trong chi tiết” [Trich Lời nói đầu]. Ông khẳng định nghệ thuật phải gắn chặt với thế giới thực tại, phải có tính lịch sử và thể hiện chân thật cuộc sống. Lời nói đầu thể hiện t ư tưởng phức tạp của nhà văn [về triết học, tư tưởng và tôn giáo]. Về nghệ thuật, Lời nói đầu đề cập phương thức xây dựng tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực : “Xây dựng những tính cách điển hình bằng cách kết hợp những nét của vô số những tính cách đồng nhất không chỉ của con người, mà các biến cố của đời sống cũng biểu hiện bằng điển hình”. Nộị dung tiểu thuyết hiện thực của Balzac bao quát mọi hoạt động của con người ở nhiều lĩnh vực khác nhau, mọi giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Từ đời sống vật chất, kinh tế, tinh thần…từ nơi ăn chốn ở, đi lại, làm lụng, mua bán, học hành, nghiên cứu, sáng tạo, kinh doanh…Đặc biệt Balzac đã vạch trần vai trò của đồng tiền trở thành động lực xã hội trong tay của giai cấp t ư sản nắm chính quyền và đưa xã hội vào con đường công nghiệp hoá…Nhà văn đã phản ánh cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp quí tộc suy tàn và giai cấp tư sản đang lên ở đô thị và cả nông thôn và tuy “về mặt chính trị, Balzac là một đảng viên chính thống, tác phẩm lớn của ông vẫn là một bản trường hận ca than thở sự tan rã không cứu vãn được của xã hội thượng lưu…[Ănghen]. Các nhân vật phản diện chiếm số đông trong tác phẩm của Balzac: bọn tham lam, hãnh tiến, lũ cơ hội, kẻ bất nhân…Có nhà phê bình nhận xét “Balzac là thiên tài của cái Ác và thông tục” [Langson]. Thực ra Balzac cũng quan tâm miêu tả “những nhân vật đức hạnh”, những người tốt và lí tưởng trong tiểu thuyết song việc này quả khó khăn hơn. Đó là các hình tượng nhà phát minh sáng tạo như Bantasa Claet, David Cezar, nhà tư P HN-VHPT 2 trang 39
  4. tưởng như Louis Lambe, nhà cách mạng như Misen Chrestien, văn nghệ sĩ như hoạ sĩ Franhofe nhạc sĩ Gambara, nhà văn Actese v.v; Bên cạnh đó còn có những gương mặt phụ nữ cao thượng, nhân hậu như Eve, Eugenie…như Pauline, Berenise…Họ là những con người chân chính của tương lai, trước mắt chẳng đủ khả năng đe doạ sự tồn tại của trật tự tư sản. Prosper Merimee [1803-1870]. Nhà văn viết truyện ngắn của văn học hiện thực Pháp. Xuất thân từ gia đ ình nghệ sĩ - trí thức, Merimee được giáo dục chu đáo, to àn diện. Tốt nghiệp luật khoa, ông làm hành chính và bảo tàng khảo cổ nhưng con người nghệ sĩ lấn át con người viên chức. Sớm kết bạn với Stendhale và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà văn hiện thực lớn. Ông say mê nghiên cứu các nhà văn Anh như Walter Scott, Shakespeare và các nhà văn Nga cùng thế kỉ như Turgueniev, Puskin, Gogol. Năm 40 tuổi, ông được bầu vào Viện Hàn Pháp và Viện Hàn Lâm khảo cổ. Từ năm 1829, Merimee đã tìm được thể loạI thích hợp là truỵên ngắn và truyện vừa. Nhưng kiệt tác trong hơn hai mươi năm sáng tác là: Colomba, Tamango, Mateo, Phancon, Carmen v.v.. Merimee viết về con người thượng lưu Pháp nhằm phơi bày những tính cách nghèo nàn, phù phiếm, thói đạo đức giả và vị kỉ của họ. Ngay cả người phụ nữ thượng lưu cũng là nạn nhân của sự giả dối, lừa lọc [truyện Hai sự hiểu lầm]. Chán ghét đề tài giới thượng lưu đương thời, ông quay sang t ìm những đề tài ở xứ sở xa lạ, thể hiện những tính cách mãnh liệt với những vẻ đẹp tự nhiên hoang dã. Truyện vừa “Carmen” là một đỉnh cao nghệ thuật. Carmen là cô thợ thủ công người Bohemien rồi trở thành một cô gái lang thang, Jose là lính đào ngũ trở thành tên cướp. Carmen không tránh khỏi mê tín, tuỳ tiện nhưng cô là người dũng cảm, can trường, nghị lực, yêu say mãnh liệt. Carmen gây sức hấp dẫn người đọc còn vì biết tôn trọng danh dự, biết bảo vệ tự do, sẵn sàng đi đến cái chết không chút sợ hãi... [Thế kỉ XX có vở vũ kịch ballet Carmen dựa trên tiểu thuyết này] GIAI ĐOẠN 2 Gustave Flaubert [1821-1880] Cha của Falubert là thầy thuốc phẫu thuật. Thời gian học trung học, anh mơ ước trở thành “trước hết là nghệ sĩ”. Lên Paris học luật,tiếp xúc nhiều nhà văn nổi tiếng như Hugo. Hai năm sau bị bệnh thần kinh phải bỏ học luật về ở trại ấp riêng ở Rouan. Năm năm sau đi du lịch một số nước phương Đông …Ông viết nhiều tác phẩm nghệ thuật ưu tú như “Bà Bovary”, “Sự cám dỗ của thánh Angtoan”…tiếp tục truyền thống văn học hiện thực của Stendhale và Balzac Sau biến cố 1848 ông trở nên hoài nghi, bi quan nên rút vào “tháp ngà nghệ thuật” Tuy nhiên tác phẩm của ông vẫn có giá trị tố cáo mạnh mẽ nền văn minh t ư sản như ông viết: “Sự thô bỉ là sản phẩm của thế kỉ 19”. Ông cảm thấy sự suy thoái của xã hội tư sản nhưng không t ìm ra được lối thoát. Quan điểm thẩm mĩ của Flaubert cũng thể hiện mâu thuẫn thế giới quan của ông : vừa chấp nhận cái đời thường là đối tượng miêu tả của nghệ thuật vừa yêu cầu “nghệ thuật thuần tuý, hình thức hoàn mĩ” của nghệ thuật khách quan. “Bà Bovary” [1857] được viết cật lực sau hơn 4 năm. Khi đăng lần đầu trên tạp chí thì bị chính quyền theo dõi, kiểm duyệt. Emma Bovary là một phụ nữ xinh đẹp trẻ trung, không bằng lòng với số phận đã cố sức đi t ìm một “cuộc sống Pháp” nhưng rồi sa P HN-VHPT 2 trang 40
  5. ngã và cuối cùng tự tử vì tuyệt vọng. Thực tại đớn hèn của xã hội bao quanh nàng và khi ngoại t ình nàng lại thấy sự vô vị của hôn nhân. Luẩn quẩn không lối thoát ra khỏi cuộc đời toàn những sự giả dối, Emma vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cái thấp hèn rồi lại bị cái thấp hèn xâm nhập trở lại. Ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt đã mô tả quá trình sa đoạ của Emma từ cô thiếu nữ đa cảm đến người đàn bà dối trá, đắm chìm trong nhục cảm. Guide Maupassant [1850-1893] Sinh ra trong một gia đình quí tộc phá sản ở Rouan. Sau khi cha mẹ li dị, Maupassant sống tự do với mẹ ở quê ngoại. Tốt nghiệp trung học loại giỏi. Nhập ngũ, tham gia chiến tranh Pháp-Phổ. Về Paris làm viên chức Bộ hải quân và từ năm 1878 làm ở Bộ giáo dục. Được sự dìu dắt của Flaubert bạn thời niên thiếu của mẹ ông, Maupassant bắt tay viết văn. Tác giả “Bà Bovary” chỉ dẫn cho ông một số nguyên tắc của nghề văn : Phải tiếp xúc với thực tại. Tìm hiểu những điều chưa ai nói đến Cần coi thường sự khoa trương và những định kiến tư sản Cần phải kiên trì và độc đáo trong nghề này. Trong 7 năm, Maupassant hay làm thơ và viết kịch ngắn. Flaubert vẫn giúp đỡ sửa chữa cho Maupassant và khích lệ tài năng của ông. Năm 1880, ông thực sự nổi tiếng với truyện ngắn “Viên mỡ bò”. Từ đó ông chuyển hẳn sang nghề văn. Năm 1885 ông mắc bệnh thần kinh, đến năm 1893 Maupassant từ trần ở một nhà thương điên Paris. Sáng tác của Maupassant gồm hơn ba trăm truyện ngắn và sáu tiểu thuyết. Tiểu thuyết nổi tiếng có “Một cuôc đời”, “Anh bạn điển trai”, “Đỉnh Orion”… Đề tài truyện ngắn của ông rất phong phú từ cuộc sống bình thường của tầng lớp trung lưu, dân nghèo ở thành thị và nông thôn, tác giả đã phản ánh những dục vọng chạy theo danh lợi, đồng tiền, những hành vi xấu xa tội lỗi gây nên những tấn kịch trong gia đình [Bố của Simon, Món gia tài, Ngoài khơi, Chú Jule tôi…] tình yêu nước sâu xa của người dân bình thường [Viên mỡ bò, Đôi bạn, ông cụ Nilon…]. Trong một số tác phẩm, bắt đầu có những yếu tố bi quan về thân phận con người hoặc đôi khi xa vào tự nhiên chủ nghiã. Ông phủ nhận Chúa Trời “dốt nát, chẳng hiểu ý nghĩa mọi việc trên đời”, ông còn mất niềm tin ở con người “chúng ta chẳng biết g ì cả, chẳng tưởng tượng ra điều gì”. Vì vậy mà nỗi lo âu khắc khoảI của con người hiện lên rõ nét trong một số truyện của ông vào thời kì cuối đời [Sự sợ hãi, Hocla]. Maupassant là nhà văn hiện thực tiêu biểu trong giai đoạn văn học hiện thực Pháp sau năm 1848. Văn học Công xã Paris Sau Cách Mạng tháng Sáu 1848, cuộc đấu tranh giai cấp giữa t ư sản và vô sản ở Pháp ngày càng diễn ra gay gắt. Năm 1851, Louis Bonaparte làm cuộc đảo chính, khai sinh Đế chế II. Hai mươi năm sau, Đế chế II sụp đổ sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Thổ. Đế chế II thối nát và ách áp bức nặng nề của giai cấp t ư sản phản động là nguyên nhân của cuộc nổi dậy của nhân dân lao động Paris 1871 “Đế chế là hình thức vô lại nhất, đồng thời là hình thức tồi tệ nhất của xã hội tư bản nô dịch lao động” [K.Marx]. Từ thánh 9 năm 1870, đến tháng 3 năm 1871 nổ ra cuộc xung đột phức tạp giữ a Chính phủ Cộng hoà tư sản và nhân dân lao động Paris vũ trang, đứng đầu là giai cấp vô sản. Sáng ngày 18 tháng 3 năm 1871, Paris được đánh thức bằng tiếng reo hò vang dội P HN-VHPT 2 trang 41
  6. lặp đi lặp lại: “Công xã muôn năm”. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp vô sản đứng lên làm chủ một thủ đô. Ngày 28 tháng 3, Hội đồng công xã được thành lập. Các chính sách mới của chính quyền Cách mạng được ban hành. Cuộc chiến đấu ác liệt lại diễn ra giữa Công xã và bọn phản động Verseille. Sau 72 ngày tồn tại, Công xã thất bại; những chiến sĩ Công xã bị thế lực tư sản phục thù và đàn áp đẫm máu. Cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân lao động Pháp, thắng lợi và thất bại của Công xã Paris đã hình thành một giai đoạn văn học mới – văn học tiên phong nữa sau thế kỉ 19 ở nước Pháp. Những nhà văn, nhà thơ Công xã cũng là những chiến sĩ kiên cường, bất khuất của Công xã như Eugene Potier, Louise Mechel, Jule Valet, Jean Baptiste Clemant… Văn học Công xã gồm thơ, văn được sáng tác trước và sau khi Công xã thành lập. MườI năm sau khi Công xã thất bại, vẫn còn nhiều tác phẩm văn viết về Công xã như Victor Hugo, Rimbeau, Verlaine. Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu : Biểu tình đòi hoà bình. Thơ, Louise Michel. Đổi Paris lấy bít-tết. Thơ, Emile Drue. Paris, hãy chiến đấu. Thơ của Eugene Potier. Quốc tế [Internationale], thơ Eugene Potier. Quốc tế ca là bài thơ bất hủ, kêu gọi “đoàn quân nô lệ” vùng lên lật đổ chế độ tư bản, khẳng định sức mạnh của người lao động có thể tự giải phóng, yêu cầu đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước mới, kêu gọi binh lính phản chiến, đo àn kết liên minh công nông. Mở đầu và kết thúc bài thơ là điệp khúc “quốc tế cộng sản sẽ là xã hội tương lai”. Nhiều bài thơ được sáng tác trong nhà tù như “Chúng tôi ca hát gì trong tù, Hoa cẩm chướng, Thất bại..”bộc lộ tinh thần kiên định và niềm tin tưởng vững chắc vào tương lai. Mười năm sau ngày công xã thất bại, các nhà thơ vẫn viết để kỉ niệm Công xã và lên án bọn khủng bố tàn bạo [Công xã Paris, Ở chỗ này Công xã đi qua của Potier, Bài ca người tù của Michel, Tuần lễ đẫm máu của Clement,…] và đòi ân xá những người Công xã. Nhà văn Jule Valex viết cuốn tiểu thuyết “Jacque Vintera” 3 tập: “Chú bé, Cậu tú, Người khởi nghĩa” trong đó xây dựng cuộc đời chiến sĩ Công xã tên Vintera – có thể coi đây là nhân vật hoàn hảo đầu tiên của văn học cách mạng. Văn học suy đồi [Trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”của Pacnasse, Chủ nghĩa tượng trưng, Chủ nghĩa tự nhiên] Vào thời điểm 1848, tính chất cách mạng của giai cấp tư sản Pháp đã thoái hoá. Những năm 60, chủ nghĩa t ư bản Pháp chuẩn bị bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Hệ tư tưởng tư sản suy thoái được thể hiện thành nhiều lí thuyết duy tâm, siêu hình như lí thuyết về sử học của Fusten De Coulanger, lí thuyết thực chứng của Hippolit Ten… Trường phái thơ ca Pacnase ra đời 1852 ở Pháp với các nhà thơ Theophin Gotier, Le Compte, Theodore de Banville…Họ đưa ra tuyên ngôn về nghệ thuật thuần tuý qua những tập thơ “Thơ cổ đại”, “Thơ hoang dã” lấy đề tài từ thời cổ Hi Lạp và Ấn Độ. Quay lưng hoàn toàn với thực tại xã hội, họ nói về bí mật của thế giới nội tâm, sùng bái vẻ đẹp lịch sử, cổ xưa, ngoại lai, họ muốn kết hợp “nghệ thuật với khoa học bởi lâu nay tách rờI nhau”, rằng thơ ca chỉ nên quan tâm tới cái Đẹp, không nên phục vụ lợi ích thiết thực của con người. Các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật mà tiên phong là Pacnasse quay lưng với thời cuộc, đắm chìm trong cái đẹp thuần tuý, thực chất là họ bộc lộ nỗi chán chường, bi quan trươc xã hội đương thời. P HN-VHPT 2 trang 42
  7. Chủ nghĩa tượng trưng tiếp tục thể hiện những sắc thái khác nhau của t ư tưởng bi quan, lo âu trước những biến cố xảy ra trong nửa sau thế kỉ 19 bằng bút pháp t ượng trưng của các nhà thơ nổi tiếng Charles Baudelaire, Rembeau,Verlain, Malacmee…nhà thơ tượng trưng chống lại truyền thống của chủ nghĩa lãng mạn và cả trường phái Pacnase với phong cách biểu hiện t ượng trưng độc đáo. Charles Pierre Baudelaire sinh ngày 9 tháng 4, 1821 [mất 31 tháng 8, 1867] là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp trong thế kỷ 19. Ông sinh năm 1821 t ại Paris. Năm 1827, cha ông qua đời. Sau đó, mẹ ông tái giá và gửi ông vào một trường nội trú. Ông cùng gia đình tới Ấn Độ vào năm 1841. Khoảng một năm sau đó, ông trở về Paris, đối mặt với cuộc sống thiếu thốn và bắt đầu sáng tác. Ông có tham gia cuộc Cách mạng năm 1848 kết thúc nền Quân chủ tháng Bảy. Trong thời kỳ này, ông gặp một phụ nữ đẹp t ên là Jeanne Duval, và chính người này đã đem nhiều cảm xúc và thi hứng cho ông. Năm 1867, ông qua đời sau một thời gian ốm nặng. Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật, dịch nhà thơ Mĩ Edgar Allan Poe, xuất bản tập thơ Les Fleurs du Mal [đã xuất bản ở Việt Nam dưới cái tên "Những bông hoa ác"]. Sau cái chết của ông, một số tác phẩm như Journaux intimes [Nhật ký riêng tư] và Petits poème en prose [Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi] mới được xuất bản. Nhà thơ cảm thấy chán ghét thế giới t ư bản và mang một nỗi buồn sâu sắc, luôn luôn bị ám ảnh bởi tuổi già và cái chết. Những tập thơ tiêu biểu là “Nỗi u buồn Paris”, “Tim ta trần trụi”, và đặc biệt tập thơ “Bông hoa Ác” [Fleurs du Mal, 1857]. Trong một bức thư gởi cho bạn năm 1866, ông viết “sự nhất quán chân thực của Bông Hoa Ác là ở sự chân thành đau đớn của nhà thơ được thể hiện trọn vẹn trong đó. Cần phải nói với anh rằng trong cuốn sách dữ dội này, tôi đã gởi vào đó tất cả sự hận thù của tôi…”. Tác phẩm làm chấn động dư luận, bị toà kết án. Lần đầu tiên trong văn học, một nhà thơ đã thi vị hoá cái xấu, cái ác và nỗi đau. Tác phẩm phản ánh nỗi cô đơn và những tình cảm suy đồi của con người trong thế giới tư bản. Chủ nghĩa tự nhiên là một trào lưu văn học suy đồi ở Pháp từ những năm 60 thế kỉ 19. Những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa tự nhiên đã xuất hiện ở Gustave Flaubert khi ông tuyên bố: “nghệ thuật lớn có tính chất khoa học phi ngã”. Những nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu hơn cả là hai anh em Goncur [Edmond và Jules] và Emil Zola. Về lí luận, Zola cho rằng cần áp dụng khoa học thực nghiệm vào nghệ thuật ; ông ứng dụng những phương pháp của khoa học thực nghiệm vào tiểu thuyết. Chịu ảnh hưởng của Ten, ông tin rằng t ình cảm, tính cách của con người đều bị những qui luật chi phối, như qui luật di truyền và những qui luật sinh lí học khác. Tiểu thuyết trở nên một bộ phận của lịch sử tự nhiên và y học. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm của Zola có giá trị hiện thực. Về sau ông càng quan tâm đến các hoạt động xã hội và dần dần từ bỏ chủ nghĩa tự nhiên để trở về là nhà văn hiện thực. Cuối thế kỉ 19, tình hình văn học Pháp ngày càng phân hoá: văn học tiến bộ và văn học suy đồi đan xen nhau. Văn học hiện thực [phê phán] Pháp thế kỉ 19 đã được Marx và Engels đánh giá cao, nhất là về giá trị nhận thức xã hội, cũng như đối với văn học hiện thực Anh. Giới nghiên cứu đã nêu lên những điểm khác biệt của văn học hiện thực Pháp như sau: “Trong chủ nghĩa hiện thực Pháp, sự hư hỏng của con người được trình bày như là sự bộc lộ trực tiếp bản chất sinh vật, được khẳng định như là bản chất cố hữu của nó”. P HN-VHPT 2 trang 43
  8. Sự khẳng định vai trò cá nhân thực ra là sự đấu tranh của cá nhân với toàn thể xã hộ i. Do ảnh hưởng của tinh thần khoa học, nhu cầu về tính khách quan trong sự quan sát thế giới được nâng lên mức tối đa. Sức thuyết phục của tác phẩm trước hết là ở tính chân thực và sự nhận thức cuộc sống.  HONORE DE BALZAC [1799-1850] Giới thiệu tác giả Khi Balzac xuất hiện trên văn đàn thì nhiều ngôi sao của thế kỉ đang độ toả sáng rực rỡ : Walter Scott, Byron [Anh], Chateaubriand, Hugo, Vigny, Musset…và Stendhale. Đến sau nhưng sự nghiệp đồ sộ của nhà văn lại chứa đựng một sự tổng kết cả thời k ì đã qua và hé mở một viễn cảnh mới của văn học thời đại. Cho tới tận bây giờ, khi bàn đến một vấn đề mới của tiểu thuyết, người ta vẫn lấy Balzac làm mốc đối chiếu. Ngay từ nguồn gốc xuất thân, Balzac đã không thuộc loại quí tộc phong nhã, hào hoa như đa số những nhà văn lãng mạn của thế kỉ. Ông chẳng có một quá khứ dòng dõi, một tên hiệu quí tộc, một lâu đài để mà nhớ tiếc, thậm chí chẳng có một tủ sách, một khu vườn thơ mộng hoặc chiến công của ông cha, một bầu trời nước ngoài từng du ngoạn, hay những phòng khách thanh lịch…Dòng họ của ông, tổ tiên là họ Bansa, những người nông dân đổ mồ hôi sôi nước mắt trên những mảnh ruộng vùng Tach. Năm 1769, cha Balzac đã dành được ít tiền, chuyển lên Paris và đổi thành họ Balzac. Cuộc cách mạng đã tạo ra một lớp người “đục nước béo cò” mà cha của Balzac, ông Bannat Francoisé Bansa chính là thuộc lớp người đó. Cuối chặng đường đó là một vụ hôn nhân béo bở: năm mươi mốt tuổi, ông cưới con gái của một gia đình tư sản chuyên làm dịch vụ hậu cần cung ứng cho quân đội, lúc ấy cô ta mới mười chín tuổi . Hai năm sau đứa con trai ra đời: đó là Honore de Balzac sinh ngày 2 tháng Năm ở thành Tours khi gia đình đã khá giả. Honore vốn chẳng phải dính dáng g ì đến dòng họ quí tộc Balzac D’Antreger như ông thêm vào tên mình cùng với gia huy và tiểu từ “de” – đó chính là “hư cấu” đầu tiên trong sự nghiệp văn chương của ông. Chúng ta cứ coi Balzac là bút danh của Honore là đủ . Balzac cũng không thuộc loại “thần đồng” nổi tiếng từ lúc 16, 17 tuổi như Hugo, Musset. Đoạn đời Balzac học sinh ở trường Vandome cũng không có g ì chói lọi. Những kỉ niệm thời ấy, có lẽ là những cuốn sách đủ loại mà Balzac đã đọc, và mặc cảm của một chàng thiếu niên biết mình chẳng đẹp, không nổi bật bằng đứa em trai t ên Henry luôn được mẹ cưng chiều và thiên vị . Sau đó ông chuyển sang trường trung học Tours, do mệt mỏi vì đọc khối lượng sách quá đồ sộ. Tới năm 1819, sau khi học xong khoa luật, sang thời kì tập sự, ông đã chống lại ý kiến gia đình, không chịu theo nghề luật, mà lên ở Paris trong một căn gác xép số 9 phố Ledigie, để bước vào văn nghiệp. Bước đầu, bố mẹ nhà văn chịu nhượng bộ. Kết thúc hai năm trời gia đ ình ứng tiền cho Balzac viết lách là một vở bi kịch tựa đề Cromwell [trùng tên với vở kịch do Hugo viết], đó là vở kịch khi ông đọc thử cho gia đình nghe, cả nhà đã ngủ gật. Tiếp theo đó là mười năm trời không tên tuổi, nói đúng hơn là mười năm viết dưới những tên tuổi khác. Tuy nhiên không thể coi thời kì này là một sự lãng phí, mất mát. Vốn sống ngày càng dày dặn, sự cọ sát với cái bình thường, sự tiếp xúc với đủ loại người và cả những lối viết thời kì này cũng để lại những dấu vết khó phai mờ về sau. P HN-VHPT 2 trang 44
  9. Nhà văn cũng tiếp thu cả mặt xấu như nhà văn Đức Stepan Zvaig nhận xét: “chính vì giai đoạn này mà lối viết và ngôn ngữ Balzac sẽ suốt đời mất đi vẻ tinh khiết”. Tuy nhiên, cái nguồn “tiểu thuyết đen” mà Balzac đang vục tay vào đó cũng không nhất thiết là một nhãn hiệu xấu. Trong những cuốn tiểu thuyết thời k ì này, có những cuốn đã báo trước một vài nét của Balzac thời kì sau. Giao đoạn đầu sáng tác Tác phẩm “Những người Chouans” ra đời năm 1892 là tác phẩm lớn nhất của giai đoạn đầu đựoc nhà văn chọn xếp vào bộ “Tấn trò đời” sau này. Tác phẩm này chấm dứt thời kì làm ăn chung vốn với một số nhà văn khác cùng viết những chuyện li kì, dễ dãi mà giới phê bình ngày nay gọi là sản phẩm của “Công ty Horace de Cinglin, anh và em”. Thời kì 1829-1835 được coi là thời kì in dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Balzac . Tuy thế, có một số nhà nghiên cúư Pháp cho rằng, chủ nghĩa lãng mạn thời kì đầu đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong suốt cuộc đời nghệ thuật của Balzac. Nếu coi những chi tiết “không chân thực” [theo nghĩa là: không ở cái dạng vốn có trong cuộc sống], như một dấu hiệu căn bản của văn học lãng mạn thì quả là thời gian này Balzac đã cho ra toàn những tác phẩm có yếu tố hoang đường của bộ “Tấn trò đời” . Đó là năm tác phẩm sau: Thuốc trường sinh [1803], Miếng da lừa [1831], Đức chúa Kito ở Flandre [1831], Serephita, Menmote qui thiện [1835] . Ngoài ra, những motif khác của chủ nghĩa lãng mạn như – thiên nhiên, những hình tượng quá cỡ, khác thường… cũng có thể tìm thấy ở giai đoạn này . Nói về cuốn “Những người Chouans”, về sau Balzac đã tâm sự với phu nhân Hanska: “đó quả là một bài thơ tuyệt đẹp. Chất thơ ở đó thật diệu kì. Xứ sở và chiến tranh nơi đây được miêu tả một cách hoàn hảo và khoái hoạt khiến tôi kinh ngạc”. Cuốn tiểu thuyết lịch sử có hai nhân vật chính đứng ở hai chiến tuyến đối địch nhau cho đến chết ; với họ đêm tân hôn cũng là đêm cuối cùng. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết ấy đã xoá bỏ hẳn khoảng cách thời gian trong tiểu thuyết lịch sử thường thấy trong chủ nghĩa lãng mạn trước đây: Balzac đang viết sử về thời k ì hiện đại. [Giống như Hugo viết “Chín mươi ba” - cuốn sử của thời kì hiện đại]. Đúng như lời tác giả nói “Tôi có trước mắt mình cái mẫu : thế kỉ 19”. Cảm giác về những số phận, cảnh đời và những triết lí hiện đại đã khiến chúng ta thấy những cuốn tiểu thuyết [có vẻ lãng mạn] này gần kề với tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa , chớ không nhất thiết phải tái hiện chi tiết chân thực. Mở đầu “Thuốc trường sinh”, Balzac cũng nói rõ bằng hình ảnh hoang đường chỉ là một phương tiện, còn mục đích của tác giả là để phản ánh những quan hệ xã hội thực đương thời. Chi tiết hoang đường nằm ngay ở tựa đề tác phẩm – De Benvideco, là người cha của Don Juan [vẫn là Don Juan quen thuộc ở châu Âu] lúc hấp hối, trao lại cho con lọ thuốc trường sinh để con trai tẩm vào ông khi đã chết hẳn thì người cha sẽ hồi sinh . Khi người cha chết, Don Juan không muốn cha sống lại nữa. Anh ta vừa muốn một mình làm chủ gia tài lại vừa muốn thử thuốc để sau này dùng cho bản thân nên đã tẩm thuốc vào một con mắt của cha, con mắt mở ra, trong sáng, trẻ trung. Thế là Don Juanvội vã bóp chết con mắt đang sống lại. Trong đoạn “Gửi độc giả”, Balzac viết “đây không phải là một trong những trò đùa hợp thời trang của năm 1830 lúc mà tác giả nào cũng dùng “cái khủng khiếp” để làm vừa lòng các cô thiếu nữ”… và Balzac nói đến hiện tại “…khi chúng ta đang đạt tới cái tội giết cha một cách phong nhã như Don Juan…”. Độc giả phải P HN-VHPT 2 trang 45
  10. chăng không nhận thấy trong lòng xã hội có bao kẻ mà luật lệ, phong tục và những lề thói của chúng khiến họ luôn luôn nghĩ tới cái chết của người thân và muốn lợi dụng cái chết ấy. Họ cân nhắc xem một cái gia t ài đáng giá bao nhiêu khi đang mua cho vợ một cái khăn quàng, trong lúc bước lên thềm rạp hát , khi ao ước đi xem ở rạp Buffon, lúc mơ một cái xe… Lúc nào họ cũng nhìn thấy những con mắt mà họ muốn khép chúng lại, thế nhưng nó lại cứ mở ra mỗi buổi mai trước ánh sáng, như con mắt của Benvidero trong công trình nghiên cứu này” Tác phẩm “Miếng da lừa” khi xuất hiện đã khiến những nghệ sĩ lớn đương thời như Goethe phải thán phục, cho đến nhà văn Anh Oscar Wilde ở cuối thế kỉ vẫn còn xúc động vì hình ảnh quái dị đã nói lên một triết lí nhân sinh sâu săc: những khát vọng và sáng tạo của con người sẽ thiêu huỷ họ. Cũng vẫn hình tượng quái dị ấy, nhà nghiên cứu Oblomiersky lại gắn nó với những ý nghĩa những tiến trình lịch sử cụ thể. Ông coi nhân vật chính Raphael như điển hình cho sự phân huỷ bên trong của một tính cách bị ép giữa một hoàn cảnh có tính chất hai mặt. Bởi thế, anh vô phương cứu rỗi trước hình tượng về sức mạnh đã nghiến nát mình, và hình ảnh quái dị ấy ở đây phản ánh cái tiến tr ình hoàn thành ngoài ý thức con người, có tính khách quan . “Miếng da lừa” Raphael de Valentant là thanh niên thuộc một gia đình quí tộc phá sản. Cha mẹ mất sớm, anh là người có tài năng và lí tưởng. Sống cảnh nghèo trong một căn gác xép, cần cù học tập và viết sách nghệ thuật. Anh lại khao khát tình yêu, một tình yêu trong giàu sang nhung lụa nên không quan tâm đến mối tình trong sáng và thắm thiết của Pauline, con gái bà chủ nhà. Hai mẹ con tuy nghèo nhưng sẵn lòng yêu mến, ân cần đối với anh. Rồi vì thiếu kiên nhẫn, anh theo một người quen tên là De Rastignac rủ rê từ bỏ cuộc sống lao động nghèo để chen vào cuộc sống phóng đãng phù hoa của giới thượng lưu Paris. Anh yêu say mê nữ bá tước Fedora - người đàn bà thời thượng có sắc đẹp và tiền của nhưng lại thiếu một trái tim để hưởng ứng mối tình chân thành và nồng nhiệt của Raphael. Cuối cùng anh bị Fedora cự tuyệt. Thất vọng, anh lăn mình vào những cuộc chơi truỵ lạc, khi hết sạch tiền, anh định đi kết liễu cuộc đời mình. Trên đường đi ra sông, vô tình anh ghé vào một cửa tiệm bán đồ cổ. Lão chủ tiệm tặng cho anh một miếng da lừa có phép thiêng thoả mãn mọi ước nguyện cuả người chủ mang nó trong tay, nhưng với điều kiện là mỗi lần toại nguyện thì miếng da lừa co lại, tuổi thọ của người chủ sẽ giảm đi. Với miếng da lừa trong túi, Raphael mau chóng trở thành triệu phú, gặp lại Pauline lúc ấy đã trở nên giàu có nhờ được kế thừa một tài sản lớn. Anh xin kết hôn với nàng. Sau đám cưới, sức khoẻ anh suy sụp, anh ngã bệnh. Không cần dùng đến cái miếng da lừa kia nữa, thậm chí đem quẳng nó đi cũng không xong. Anh cố gắng không ứơc điều gì hết, muốn tìm một lối sống như cây cỏ…xa rời đời sống xã hội, nhưng cũng uổng công. Cuối cùng trong cơn điên loạn, anh không ngăn được ước ao ân ái với Pauline và tắt thở trong cánh tay người vợ trẻ. Tóm lại trong giai đoạn đầu tiên, Balzac đã cho ra đời cuốn “Những người Chouans” như một tia sáng còn lại của thiện cảm cách mạng trước 1831, kế đó, “Thuốc trường sinh” và “Miếng da lừa” lại bày tỏ thái độ phủ nhận những quan hệ quí tộc và tư sản, bắt đầu hé mở toàn bộ “Tấn trò đời”. Tuy nhiên, tác phẩm tiêu biểu nhất cho giai đoạn đầu của Balzac chính là Eugenie Grandet . P HN-VHPT 2 trang 46
  11. Giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu Tiểu thuyết Eugenie Grandet- cuộc chia tay lưu luyến với chủ nghĩa lãng mạn “Eugenie Grandet” được coi như một trong những kiệt tác giai đoạn đầu tiên khi nhà văn thật sự “trở thành Balzac”. Và đến cuối đời khi nhà văn đã thật sự trưởng thành già dặn về tài năng thì đối với một số người có thị hiếu ưa truyền thống trong sáng, gọn nhẹ của lối viết Pháp vẫn ưa thích cuốn này hơn cả “Vỡ mộng”, “Những người nông dân”… Nhân vật chính của tiểu thuyết này khác xa với nhân vật chính của nhiều tác phẩm khác trong bộ “Tấn trò đời” [La Commedie humaine]: duy nhất nàng Eugenie Grandet là nhân vật chính diện [các nhân vật chính khác của Balzac đều là nhân vật phản diện]. Không phải lão Grandet bố nàng mất trước, không phải vì căn cứ theo độ dài của trang chữ mà ta coi Phelix Grandet chẳng phải là nhân vật chính. Trái lại cái “màn kịch hài hước một cách xót xa này” nhờ có “nhân vật Grandet mà được nổ i bật trên sân khấu và được soi sáng”. Ở lão Felix Grandet, người ta nhận ra ngay cái cốt cách quen thuộc của kiểu “nhân vật dục vọng” của Balzac . Nét chủ đạo ấy của nhân vật Balzac được trình bày qua cả một thế giới đồ vật, từ cái phòng khách, ngôi nhà xấu xí, lạnh lẽo nhưng kiên cố…đến chùm chìa khoá mà ông “tình cờ mang theo mình”…Hình ảnh Grandet gắn chặt với “những cảnh đời tỉnh lẻ” – nơi chủ nghĩa tư bản đang đổi thay nếp sống gia trưởng cũ kĩ và lối sống điền viên bắt đầu đô thị hoá. Quả là có một cái gì đó quái gở khác thường trong dục vọng thì nhân vật Grandet vẫn là điểm gặp gỡ, là sản phẩm của một thời kì cách mạng Pháp đã đi qua, lúc mà gã hãnh tiến từ đẳng cấp thứ ba có thể ngoi lên được bằng những con đường rất giống với cha của Balzac. Thậm chí đối thủ của nhà chú cháu Cruchot lại là dòng họ Des Grassin, một dòng họ quí tộc lâu đời ở nơi đây. Grandet vừa có những nét tính cách của một gã tư sản mới nổi lên, hung hăng dẫm lên tất cả, y có thể “làm một con tính trên tờ báo đăng tin người em trai mới chết”, lại vừa có cái khôn ngoan, thực tế của một bác phó thùng trước đây, với cuộc sống chật vật vất vả làm ăn chưa xa lắm. Bởi thế, tuy mù quáng vì vàng, đôi khi lão tỏ ra rất thông minh, hóm hỉnh. Lão có cả một quá khứ, một lịch sử để giải thích quá trình phát triển tính cách của mình. [Còn H’Arpagon chỉ là một con người hà tiện đúng như tựa đề vở kịch, không hơn không kém : nhân vật đó nguyên phiến, ít tính chất động. Khi so sánh điều này, các nhà nghiên cứu mới giảI thích bằng những nguyên lí của chủ nghĩa cổ điển. Tuy nhiên, có lẽ cũng cần chú ý đến khả năng của thể loại: Moliere đã viết một vở kịch, còn Balzac đã viết một tiểu thuyết. Nhưng ngay cả điều này nữa, nó không phải là một ngẫu hứng : việc lựa chọn thể loại là do nhu cầu thể hiện của nhà thơ qui định. Không phải ngẫu nhiên mà Balzac đã nắm lấy cái thể loạI thường được gọi là “anh hùng ca tư sản” này] . Bên cạnh cha, mới nhìn, Eugenie quả là một hình ảnh tương phản. Nhiều nhà phê bình đã căn cứ vào việc cô là một nhân vật chính diện, một cô gái ấp ủ một tình yêu lãng mạn để coi đây là dấu vết của chủ nghĩa lãng mạn. P HN-VHPT 2 trang 47
  12. Gợi ý phân tích tác phẩm Eugenie đưa tặng Charles 5 800 franc Charles gửi lại một hộp nữ trang của mẹ Charles sau 7 năm kiếm được: 190 000 franc y trả lại cô 8 000 franc gồm vốn và lãi sau 7 năm, y đòi lại cái hộp nữ trang Y đã sòng phẳng chưa ? Khi đã dứt tình, cô lại còn trả nợ thay y : 1 200 000 franc Cô lại trả công ông Des Grassin giữ nợ giùm cha Charles suốt 7 năm qua: 50 000 franc Cô còn lại 17 triệu. Về sau lại cộng thêm số tài sản lớn của ông “chồng hờ” Cruchot de Bonfons. Cuối cùng cô sẽ còn tái giá với hầu tước De Froifons . Dưới đây, xét “thời gian nghệ thuật” trong cuốn này chúng ta cần căn cứ vào trình tự hoạt động. Chúng ta cũng cần xem xét sự phân bố trường độ thời gian [năm tháng trong cuộc đời, hành động của nhân vật] với thời gian miêu tả bằng ngôn từ trên trang giấy, ta thấy nhịp độ kể chuyện như sau: Tên các chương Nhân vật hoạt Thời gian Thời gian động chính cốt truyện kể chuyện Chương I Thị trấn Saumur Mấy dáng dấp thị thành Lão G, cô E, bà G, Chương II mụ Nanon... và 2 Mấy ngày 116 trang Cậu em họ ở Paris gia đình “bao [năm 1819 ] Chương III vây” cô Eugenie Chuyện t ình ở tỉnh nhỏ … Chương IV Bác keo hứa, bạn tình thề Chương V Ba ngày cuối năm Những chuyện buồn trong 1819 [và sơ lược Eugenie. . . và gia 58 trang gia đình đình đến năm 1824] Chương VI Sự đời là thế Ba năm [từ 1825 đến Eugenie, Charles . 72 trang .. 1827] Kết cục và Vĩ thanh Eugenie và chồng Từ 1830 về sau 3 trang Nghiên cứu số trang viết [thời gian kể chuyện] có sự không phù hợp với tính cách, lúc này thời gian kể chuyện đã trở thành “thời gian nghệ thuật”, người đọc tìm hiểu quá trình xây dựng nhân vật Eugenie nhận thấy tác giả đã tỏ ra bối rối. Những trang viết về đời sống lãng mạn của Eugenie [116 trang + 58 trang] dài hơn những trang nói về cuộc sống chấp nhận hiện thực [72 +3 trang]... Điều đó thêm một bằng chứng cho thấy nhà văn rất “lưu luyến” chủ nghĩa lãng mạn nhưng cuối cùng đành phải viết theo tinh thần tôn trọng hiện thực. “Eugenie” là “một ngoại lệ kì khôi” như lời Balzac đã giới thiệu . Điều ấy có thể do tính cách tuổi trẻ và sự cách biệt của nàng với thế giới tiền bạc mà cha nàng cố gắng tạo ra cho đứa con. Cô sống giữa một ngôi nhà u buồn tẻ nhạt. Thế giới bên ngoài duy nhất cô tiếp xúc gồm cậu ấm Adolf luôn luôn bị một bà mẹ quá sắc sảo điều khiển và ông P HN-VHPT 2 trang 48
  13. chánh án Cruchot de Bonfons ưa diện áo viền đăng ten ở cổ thì trông “giống một con gà tây” thì cái việc cô yêu Charles đến mức thay đổi phần nào cả tính cách, đến mức “lần đầu tiên trong đời nàng, những thiên hướng cao quí […] trỗi dậy”, “lần đầu tiên nàng xét đoán cha”cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, Balzac luôn luôn có hàm ý tranh luận với tiểu thuyết lãng mạn khi ộng viết lịch sử mối t ình của Eugenie. Ông gọi đó là “một tấn bi kịch không dao găm, không thuốc độc, không lưu huyết”- một “tấn bi kịch tư sản”. Bi kịch, ở tiểu thuyết này, có liên quan đến miếng ăn, túi tiền ! Khi “Grandet chồm lên như con ngựa nghe tiếng súng đại bác”, khi lão nguyền rủa con suốt đời vì gói vàng nho nhỏ của Eugenie đã trao cho Charles. Lớp xung đột đỉnh điểm là do cái ảnh có gắn vàng trong hộp đồ trang sức Charles gửi lại…[Từ 1820, khi “chưa là Balzac”, ông từng viết một cuốn sách phê phán cuốn “Reunet” lãnh mạn của Chateaubriand với một câu hỏi “Trong tiểu thuyết Reunet, con người có ăn uống không ?”- câu hỏi báo hiệu Balzac sẽ là nhà văn hiện thực chủ nghĩa sau này ]. Nếu những xung đột kể trên giữa cha và con được Balzac gọi là những lớp bi hài kịch tư sản bởi động lực của nó là một dục vọng tầm thường, thì chắc chắn cái dư vị bi kịch ở đây không phải do người cha đem lại. Eugenie biến đổi nhưng nàng cũng chẳng thể rời khỏi những ràng buộc tất yếu của cuộc sống. Ở cha nàng, cuộc giằng co chỉ là đống vàng to và đống vàng nhỏ. Còn đối với Eugenie, nàng không thể phụ tình Charles, không quên lời hứa với “một người bà con khốn khổ” nhưng cũng không thể dứt t ình cha con, dù lão ấy là Grandet. Bởi thế dù có vì một bức ảnh dát vàng, nàng đã “nhân danh Đức Mẹ, nhân danh Đức chúa Jesus hi sinh trên cây thánh giá” và những lời lẽ cao thượng ấy vẫn đúng chỗ, tự nhiên, nói lên tấn bi kịch đang giày vò trái tim nàng, mang cho nàng một kích thước cao cả. Dáng dấp bi kịch của nhân vật còn do sự đơn độc của nàng trước một xã hội mà nàng không ý thức được hết, hoặc chỉ ý thức được dần dần. Khi giấc mơ đã t ỉnh, người phụ nữ lãng mạn ấy hiểu ngay qui luật của trò chơi trong “tấn trò đời”…Một người bạn của nhà văn kể lại có lần ông ta đến thăm Balzac khi nhà văn đang viết “Eugenie Grandet” , và ông đã giật mình thấy đột nhiên Balzac kêu lên : “Có thể tưởng tượng được không ? Cô ta chết mất rồi”…Như thế, ta có thể biết dự kiến ban đầu của nhà văn đã được sửa lại sau này. Có lẽ, vì con người thực của cuộc đời thường chẳng hay chết vì tình yêu nên Eugenie đã “được sống”, không những thế, nàng đã lấy chồng, dù nàng nói với ông Cruchot de Bonfons rằng “tôi biết ông yêu tôi vì cái gì”. Có nhà phê bình căn cứ vào kết cục tác phẩm, vào cách nàng sống theo lối “tu tại gia đình” để đánh giá tư tưởng của Balzac là bảo thủ. Thực ra, sự phát triển của Eugenie ở đây rất phù hợp với qui luật nội tại của nhân vật. Một con người “hoàn toàn tình cảm” cuối cùng “đâm ra nghi ngờ mọi thứ t ình cảm”, con người đã yêu đến mức có thể sống trong bảy năm trời chờ đợi với bức tường cũ, mảnh vườn xưa, “cái ghế gỗ dài be bé ở đó hai người đã thề thốt yêu nhau cho đến trọn đời”…Và đến khi bị Charles phản bội, nàng cũng chẳng có một lối thoát nào khác. Balzac không cố ý lí tưởng hoá “vị nữ tu rất thánh” ấy: Bà sống keo kiệt, bủn xỉn như cha bà xưa kia, bà cũng lo tích luỹ, làm giàu và còn giàu có hơn cha bà, đến mức phu nhân Des Grassin phải nhận xét “Ngày nay tiếng nói của cô là tiếng nói của ông nhà xưa kia !”. Tác giả tiếp tục miêu tả ở đoạn chót [như một vĩ thanh] “dư luận tỉnh lẻ lại đồn rằng hình như vị quả phụ ấy sắp tái giá”. Thực ra Eugenie vẫn là một tính cách toàn vẹn, nhất quán. Vẫn có một nét gì đó trong tính cách chủ đạo của nàng đã hình thành từ thời trẻ: nàng không chịu dung hoà, P HN-VHPT 2 trang 49
  14. thoả hiệp với hoàn cảnh thực tại. Bản cam kết hôn nhân đầu tiên thật lạ lùng : ngay sau cưới, cô dâu chú rể sống ly thân. Nàng yêu cầu chú rể mang tiền đi thanh toán nợ nần cho người t ình cũ phản bội. Khi thay cha quản lý cơ nghiệp, nàng tiếp tục làm giàu, đồng thời mở lòng từ thiện cho dân nghèo. Nàng còn một hi vọng mong manh nào ở sự trở về của Charles chứ dứt khoát không chấp nhận một “mối t ình tay ba” khá phổ biến trong giới thượng lưu quí tộc thời ấy. Trong nàng vẫn có một mảnh vườn cũ bức tường xưa không thể phá huỷ. Có nhà phê bình nhận xét nhân vật Eugenie là “một chân dung vẽ hỏng của chủ nghĩa lãng mạn” [Langson] Tài năng của Balzac còn thể hiện ở chỗ: cùng hướng về một chủ đề nhưng những nhân vật của ông xây dựng vẫn đa dạng, không lặp lại, ngay cả ở nhân vật phụ Charles. Y đúng là “đứa cháu ruột” của ông bác Grandet song vẫn khác ông ta. Với Charles, tác giả sử dụng một lối kể chuyện khác. Tiểu thuyết Lão Goriot [Le Père Goriot] Bối cảnh Nước Pháp sau CM khoảng từ năm 1813 đến 1819 Một quán trọ ở ngoại ô Paris. Nhân vật chính Mụ goá Vauquer [vô ke] chủ quán trọ Giúp việc: cô Sylve, cậu bé Christophe Khách trọ : - lão Goriot [Gô ri ô] - Eugene de Rastignac [Ơ gien đờ Ras ti nhắc] sinh viên Luật. -Vaut’rin [Vô t’ranh] vô nghề nghiệp, nhân vật phản diện độc đáo, bí ẩn - Couture, vợ goá viên tướng, sống bằng tiền trợ cấp [vợ liệt sĩ] - Victorine, con gái bị bỏ rơi của tỉ phú ngân hàng Taillefer [Tay ơ phe]. Cô được bà Couture bảo trợ sống chung một phòng trọ. Vautrin xui chàng Rastignac cưới cô để thừa kế gia tài lớn hàng triệu. Y hứa “giúp” Rastignac trở thành triệu phú, bàn bạc dự định bố trí trận quyết đấu giết chết con trai duy nhất của lão chủ ngân hàng Taillefer. Nhưng Rastignac tự trọng không cầu hôn cô. Anh tiếp tục đeo đuổi t ình nhân Nucingen, anh ch ỉ vì tình chứ không vì tiền . . . - Poiret [Poi rê] viên chức nghỉ việc [không rõ lí do] - Michonneau [Mi xôn nô] cô gái già không rõ lai lịch, cặp bồ với Poiret, đã chỉ điểm cho cảnh sát bắt Vautrin [tên thực là Jacques Collin] để lấy tiền thưởng … - Bianchon [Bi ăng sông] SV y khoa thực tập, khách ăn tối ở quán Vauquer, bạn thân với Rastignac. Chỉ có đôi bạn này quan tâm săn sóc và chôn cất lão Goriot .[Trong các tiểu thuyết sau này, Bianchon tiếp tục trở thành thầy thuốc tài năng và nghèo. Anh là một trong số ít nhân vật chính diện trong bộ Tấn trò đời của nhà văn ]. Phu nhân tử tước Beauseant … bà con xa của De Rastignac. Một quí bà mẫu mực tiêu biểu của giới quí tộc thượng lưu. Bà ta làm cây cầu dẫn Rastignac vào xã hội thượng lưu quí tộc-tư sản. Nhân t ình của bà là lão triệu phú Ả rập d’Ajuda. Lão bỏ bà đi cầu hôn cô Rochefide con gái thừa kế triệu phú. Kết thúc truyện, bà ta thất vọng bỏ nhà đi xa t ìm nơi khác sống … P HN-VHPT 2 trang 50
  15. Phu nhân Anastasie [Nasie], con gái đầu của ông Goriot, vợ của bá tước Restaud cô hầu là Therese, nhân tình là Marsay... Phu nhân Delphine [Fifine], con gái thứ 2 của ông Goriot, vợ của tử t ước De Nucingen, cô đã có nhân tình là Maxime Trailler. Vì chiều chuộng gã nhân tình ham mê cờ bạc bị thua, cô cũng bị rắc rối với chồng. Chồng kinh doanh thất bại, y đe doạ có thể chiếm hết phần tài sản của cô [lão Goriot cấp cho con làm của hồi môn]. Cô gặp gỡ, yêu De Rastignac và quyết cùng anh xây dựng hạnh phúc mới. Lão Goriot đem số tiền cuối cùng 12 nghìn fr ancs mua căn hộ cho De Rastignac và Delphine chuẩn bị xây tổ ấm. Delphine còn tặng chiếc đồng hồ đắt tiền cho người chồng tương lai… hi sắp dọn nhà đến, hai chị em đều kêu cứu với cha. Lão Goriot đau khổ hứa vào cuộc chống lại chàng rể nam tước để bảo vệ của hồi môn cho Delphine...Rastignac đành ký tờ ngân phiếu 12 nghìn vay của Vautrin rồi giao cho bà chị Anastasie [cô đến xin tiền cha để trả nợ nhưng lão đã hết tiền]... Bán nốt đồng hồ quà tặng của người yêu để lo chạy chữa và chôn cất lão Goriot. Thế là hết, chàng chỉ còn mắc nợ Vautrin vừa bị bắt vào tù. Món nợ ấy là sợi dây định mệnh kéo chàng về một tương lai do Vautrin chỉ đạo Gondureau: thanh tra cảnh sát, mua chuộc cô Michonneau giúp y theo dõi truy bắt Vaut’rin. Nhân vật đặc biệt: đồng tiền có mặt mọi nơi mọi lúc trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết VỠ MỘNG Nguyên văn Les Illusionss perdues, thường gọi là “Vỡ mộng”, có sách dịch là “Ảo mộng tiêu tan”. Trung Quốc dịch là “Huyễn diệt” [幻灭 huàn miè]. Dịch sát nghĩa là “Ước vọng tiêu tan”. Tiểu thuyết này đựơc coi là đỉnh cao nhất của Tấn Trò Đời. Khác với cuốn “Eugenie Grandet”, “Vỡ mộng” được viết liền một mạch, gần như theo một làn cảm hứng, gồm 3 phần : Phần I - Hai chàng thi sĩ Phần II - Một vĩ nhân tỉnh nhỏ ở Paris Phàn III - Những đau khổ của nhà phát minh TÓM TẮT CỐT TRUỴÊN Phần I: Hai chàng thi sĩ Thành phố Angoulême, có một nhà in của lão Nicolas Séchard và nhà in của anh em Cointet. Lão Séchard [Xê da] vốn là thợ in bình thường, nhờ Cách mạng 1789 mà phất lên giàu có. Lão rất keo kiệt, tính toán thiệt hơn, bán lại nhà máy cho con trai là David, lấy tiền về quê tậu ruộng đất. Còn David chẳng quan tâm đến nhà in mà dồn hết sức lực thời gian để nghiên cứu chế tạo một chất bột giấy mới bằng nguyên liệu rẻ tiền, hi vọng thành công sẽ thu lợi nhuận lớn. Lucien Chardon, bạn của David, sau trở th ành em vợ của David, lại mơ ước lập nghiệp bằng văn chương và gia nhập vào xã hội thượng lưu quí tộc. Lucien thực sự có tài năng văn chương, đẹp trai nên chẳng bao lâu sau khi lui tới phòng khách của bà De Bargeton, một phụ nữ quí tộc thích văn chương, đã thu hút cảm tình của bà. Bà càng ngày càng chán ghét ông chồng già và rất đam mê chàng thi sĩ trẻ, bất chấp những lời dị nghị. Sau đó, bà rủ rê Lucien cùng trốn đi Paris, dẫn dắt anh gia nhập vào giới thượng lưu ở kinh đô. Eva chị gái làm thợ và mẹ làm nghề trông coi người bệnh, sản phụ.Họ vất vả làm việc để gom góp giúp Lucien bước vào xã hội thượng P HN-VHPT 2 trang 51
  16. lưu và khẳng định tài văn chương. Họ giống như mẹ con Eugenie vậy [Hầu như trong mỗi tác phẩm Balzac đều có người phụ nữ như thế] Phần II : Một vĩ nhân tỉnh nhỏ ở Paris Lên tới Paris, trong cảnh xa hoa lộng lẫy chốn kinh kỳ, chàng thi sĩ tỉnh lẻ không còn sức hấp dẫn với bà De Bargeton nên bị bà bỏ rơi. Chàng mất nơi nương tựa, sống vất vưởng. Lucien lao vào sáng tác thơ nhưng bị các nhà sản xuất sách báo bắt chẹt hoặc từ chối in sản phẩm của anh... Đương lúc cùng quẫn, Lucien gặp nhóm thanh niên D’Acthez nghèo khổ nhưng ham học, sống bằng lao động lương thiện, nghiên cứu và sáng tạo… trong nhóm này có Michel Chrestien là một chiến sĩ cộng hoà, về sau hi sinh trên chiến luỹ Saint Mori. Lucien chỉ gắn bó với nhóm một thời gian ngắn rồi bỏ đi v ì không đủ nghị lực theo con đường cần cù lao động. Anh gặp Lousteau, gã nhà báo láu cá , vốn xưa cũng là cựu “vĩ nhân tỉnh nhỏ” đến Paris, đã dạy cho anh biết mặt trái của giới văn chương nghệ thuật, rồi giới thiệu anh với làng báo chí “tự do” tư sản. Nhờ học được mánh khoé báo chí, Lucien mau chóng trở thành một cây bút nổi tiếng sẵn sàng bán rẻ lương tâm và ngòi bút. Anh chiếm được tình yêu say đắm vô tư của một nữ diễn viên trẻ đẹp Coralie, rồi chế giễu trả thù bà De Bargeton trên báo chí khi ến nhiều người nể sợ. Đây là giai đoạn đắc thế nhất của Lucien. Nhưng chẳng bao lâu, phe cánh bà De Bargeton giương bẫy lôi kéo Lucien sang hàng ngũ báo chí bảo hoàng bằng cách hứa hẹn sẽ xin nhà vua phong cho anh tước hiệu quí tộc. Lucien cắn câu, chạy sang hàng ngũ đối lập. Sau khi anh viết một số bài báo đả kích bạn bè cũ [báo chí tư sản] thì bọn quí tộc bỏ rơi anh. Tình nhân của anh, Coralie, bị cạnh tranh mà mất việc.., Coralie ngã bệnh. Còn Lucien nợ nần chồng chất. Anh liều lĩnh làm thương phiếu giả đứng tên anh rể - bạn cũ David để lấy tiền bạc tiêu xài. Cuộc sống lụn bại dần, Coralie chết, anh không còn xu dính túi. Giấc mộng sang giàu phú quí tan vỡ, Lucien đi quá giang xe ngựa của bà De Bargeton mà không biết, rồi lại thất thểu đi bộ về quê. Phần III : Nỗi khổ của nhà phát minh Trong thời gian ấy, ở Angoulême, David vẫn miệt mài nghiên cứu sáng chế bột giấy mới và sắp sửa thành công. Việc quản lí nhà in anh giao cho vợ là Eva. Bọn tư sản Cointet ráo riết cạnh tranh, bóp nghẹt nhà in của David và còn âm mưu chiếm đoạt phát minh của anh. Những tờ ngân phiếu giả của Lucien lọt vào tay chúng và trở thành món nợ gay gắt đòi David thanh toán. Không có tiền trả, David phải trốn tránh để khỏi ra toà. Khi Lucien về nhà, anh bị dại dột mắc mưu bọn Cointet, để lộ nơi ẩn náu của David. David bị bắt, muốn ra khỏi tù anh phải kí hợp đồng tiếp tục hoàn thành phát minh bột giấy cho bạn tư sản Cointet. Thực tế là anh bị chúng cướp không sáng chế của mình. Cuối cùng David phải bán nốt nhà in rồi đưa vợ con về sống ở nông thôn … Còn Lucien nhục nhã ê chề, anh tìm ra bờ sông định nhảy xuống tự vẫn, anh lang thang hái những bông hoa dại ven đường để ném xuống sông tự viếng đám tang của chính mình thì gặp một cỗ xe ngựa chở khách đỗ lại ven lộ. Một vị khách mặc áo thầy tu đến gần l àm quen, rủ anh về Paris làm lại cuộc đời, anh bước chân lên xe của y quay lại Paris, chấp nhận một cuộc “quyết đấu” với xã hội tư bản… Theo lời Balzac, khi viết “Vỡ mộng”, ông phải thú nhận với bà Hanska rằng: ”Thật là khó khăn, khó cực kì […]. Vẻ đẹp thuần khiết của Eva và David Séchard không P HN-VHPT 2 trang 52
  17. bao giờ đối địch [so sánh] nổi với bức tranh “Một vĩ nhân tỉnh nhỏ ở Paris” [ám chỉ Lucien]. Trong một tháng nhà văn Balzac phải chữa lại bản thảo tới mười tám, mười chín lần. Sự khó khăn ấy là việc hư cấu những gương mặt đạo đức [nhân vật lãng mạn]. “Vỡ mộng” dựng lên những cảnh đời song song, đan chéo, nhưng nổi lên hàng đầu vẫn là vận mệnh của chàng Lucien Chardon, gọi là “một vĩ nhân tỉnh nhỏ ở Paris”. Dù có mặt David Séchard ngay từ đầu bên cạnh Lucien thì David vẫn chỉ làm nền, làm nổi bật tính cách Lucien. Thực ra David vẫn có một hình bóng mờ mờ của một nhân vật “nạn nhân bi kịch”. Anh vẫn được coi là nhân vật lãng mạn. Trên con đường riêng biệt, đầy ngẫu nhiên do sự lôi kéo của mối t ình đầu, Lucien đã trở thành đại diện vận mệnh tất yếu của nhiều lớp thanh niên trong xã hội tư bản. Thật ra, sự đổ xô về thành phố lớn chỉ xuất hiện khoảng từ 1840 về sau. Hiện t ượng thu hút về thành phố là một hiện tượng điển hình của thời đại. Và hình ảnh người thanh niên lạc loài trong rừng rậm của báo chí và nhà in bấy giờ cũng rất tiêu biểu cho vận mệnh của một lớp thanh niên trí thức, nghệ sĩ đương thời. Về không gian, không có nơi nào làm chất xúc tác cho sự phát triển của nhân vật này bằng Paris bấy giờ, đó là “cái ung nhọt đang nung mủ và bốc khói nằm trên bờ sông Seine”. Ước vọng đầu tiên tan vỡ nhanh chóng là ảo mộng tình yêu khi chạm vào thực tế. “Điểm tựa của trí tuệ là đồng tiền !”. Cũng như De Rastignac [trong tiểu thuyết Lão Goriot], chàng Lucien Chardon kêu lên lời thách thức: “Dù thế nào, tôi sẽ thắng ! Tôi sẽ qua đại lộ này bằng xe bốn bánh có người hầu ! Tôi sẽ chiếm được những bà hầu tước Despa !”. Và lời thách thức ấy cũng là lời chấp nhận qui tắc trò chơi của xã hội ấy [phải có tiền bằng bất cứ giá nào. Đồng tiền là quyền lực duy nhất bắt xã hội phải quì gối ]... Ước vọng thứ hai là mộng trở thành thi sĩ nổi tiếng. Nhưng lại trở thành một tay nhà báo thất bại biến chất thành tay lưu manh báo chí.. Balzac đã đặt nhân vật trước hai ngã đường, hai khả năng: Lucien đã gặp D’Actez trước lúc gặp Lousteau. Từ thời Balzac, những người trí thức ưu tú đã thấy bản chất của : tự do báo chí” :tiếp sau bọn làm báo nô lệ hèn nhát của Đế chế, là giới áp phe Báo chí “tự do” nghĩa là tụ do phục vụ cho ông chủ “Tiền”, cho nên không phải ngẫu nhiên mà lời khuyên nhủ đầu tiên của D’Acthez là lời khuyên can Lucien không nên đi vào nghề báo. Sau này, tính cách thiếu bản lĩnh của Lucien khiến anh ta vẫn hay nghiêng ngả. Dù đi theo giới “báo chí tự do” hay theo giới “báo chí bảo ho àng” thì đều là con đường “đánh đĩ văn chương” mà thôi. Cảnh nghèo, tình bạn…một lần nữa Lucien gặp lại ở Paris một nhóm người mà trên vầng trán của họ đã in dấu thiên tài. Vốn nhạy cảm, Lucien biết rằng “giữa Paris hoang vắng”, giữa cái “sa mạc Paris, y đã tìm thấy một ốc đảo ở phố Bốn gió”. Ở đây, ta gặp lại tên tuổi nổi tiếng của rất nhiều tác phẩm trong Tấn Trò Đời“ như Bianchon trong quán trọ Vauquer [Lão Goriot], hoạ sĩ Joseph Bridot, Louis Lambert và Michel Chrestien...Về chính trị, họ là những người có “những ý kiến và chủ nghĩa trái ngược nhất”. Tuy nhiên, một nhà nghiên cứu đã nhận xét rất chí lí rằng việc Balzac ép cho một nhân vật như D’Actez mang tư tưởng bảo hoàng thì có phần hơi độc đoán. Những hành động và tư tưởng của anh chẳng khác gì đám bạn bè, đã vượt qua giới hạn của triết học không tưởng, kể cả việc “tuyên truyền cho nền cộng hoà”. Việc lí giải hình tượng Michel Chrestien khiến các nhà phê bình càng về sau càng phát hiện nhiều nét mới mẻ, thú vị. Dù cho nhân vật này chưa phải là nhân vật chính, thậm chí như một phác thảo mà thôi, thì ngay cả cái vẻ đơn chiếc của anh và bạn bè đã P HN-VHPT 2 trang 53
  18. miêu tả rất đúng màu sắc của cái mới ở thời đại bấy giờ, khi nó chưa trở thành cái phổ biến. Những người mẫu có thật mà từ đó Balzac hư cấu nên nhân vật này, họ đều chết trong khoảng những năm 30-36. Đó là những người thanh niên trí thức trong trắng, “chủ soái của phái cộng hoà”. Nhưng điều kì lạ là Balzac viết trong “Ảo mộng tiêu tan” rằng M.Chretian đã chết vì một viên đạn của một gã con buôn nào đó, và “anh đã chết không phải cho lí tưởng của mình”, có nghĩa là vượt qua những giới hạn lí tưởng Cộng hoà thời kì 1830, và vượt qua những giới hạn t ư sản. Bởi thế, thời đại cũng như tài năng Balzac chưa thể cho phép một kiểu nhân vật như vậy sống lâu hơn trong Tấn Trò Đời. Chrestien đã chết yểu, ngay cả trong ngôn từ của tiểu thuyết : anh còn xuất hiện ở Balzac tác phẩm nữa [Những người viên chức]. Những bí mật của nữ công tước De Cadinan. Cô gái xua cá] nhưng chỉ xuất hiện qua lời kể chuyện của tác giả [hoặc qua lời nhân vật khác]. Ngay cả trong “Ước vọng tiêu tan”, anh cũng xuất hiện qua lời kể chuyện là chủ yếu. Dù cho Lucien đã gặp được những con người hiếm thấy ở cá xã hội ấy, và thực sự họ đã tồn tại, những bản tính, nét chủ đạo trong tính cách của Lucien vẫn khiến anh bị thu hút bởi những thủ đọan rẻ tiền và tàn nhẫn. Bài học của Lousteau “dù sao…cần cù lao động chẳng phải là bí quyết làm nên sự nghiệp trong văn chương, mà vấn đề là “bóc lột lao động của người khác” lại hợp với ý Lucien hơn. Nhà thi sĩ “trác tuyệt và thanh nhã” đã biến mình thành một kiểu vỗ tay thuê, chẳng khác gì bọn nửa du côn, nửa khán giả mà sân khấu hàng hoá lúc bấy giờ vẫn thuê chúng tới ngồI chật cả rạp. Và lạ lùng nữa, bọn quảng cáo ấy lại có thể, sau này, giết chết một tài năng như Coralie, hoặc nâng cao một diễn viên kém cỏi như Florine. Sau đó, Lucien chỉ còn là một thứ công cụ có thể vì lợi ích trước mắt của mình mà bán rẻ tài năng để kiếm chác. Cuộc đấu súng của anh ta với M. Chrestien - chứ không phải một ai khác trong nhóm Bốn gió – không phải ngẫu nhiên mà phù hợp bản chất và qui luật của nhân vật : hai tính cách ấy, dù mở đầu là bè bạn, nhất định phải đi tới chỗ đối địch. Ở xa nhau ngót năm trăm cây số, với hai tính cách đối lập, hai sự nghiệp khác hẳn nhau, thực ra David và Lucien cùng bị đặt vào một cơ cấu và bị cơ cấu đó bóp chết. Dù David là một hình tượng chính diện nhưng Balzac lại không lí tưởng hoá anh ta. Balzac – nhà khoa học trong sáng và vô tư ấy đã xác định: “Đặt vợ anh vào cái xã hội lịch sự và giàu có là nơi nàng đáng sống và dùng cánh tay kho ẻ mạnh của mình để nâng đỡ cậu em Lucien và những cao vọng của cậu em, đó là bản kế hoạch viết bằng chữ lụa trước mắt anh”. David vẫn là một nhân vật kiểu Balzac, vẫn bị chi phốI sâu sắc bởi đồng tiền. Số phận của anh đã nói lên một mâu thuẫn rất tiêu biểu trong chế độ tư bản, một mặt nó kích thích sự phát triển, mặt khác nó huỷ diệt phát minh sáng chế. Tuy nhiên, trên cái nền đen tối của hoàn cảnh ấy, Balzac vẫn vẽ lên được một tính cách độc đáo, mãnh liệt – đó là David. Cái tất yếu của “luật rừng” trong xã hội tư bản, dường như chồng chéo thêm cái ngẫu nhiên rủi ro của số phận riêng tư, khiến cho con người kiên nghị và bản lĩnh ấy phải chịu sa cơ. Dù không bán mình cho Vautrin như Lucien, thì khi bán phát minh cho bọn tư sản, David cũng đã phải tuân theo qui luật tất yếu của cuộc sống ”mạnh được yếu thua”, rút lui khỏi cuộc cạnh tranh tư bản, t ìm về một thú vui làng quê- một lối sống lãng mạn xa xưa. Người ta cho rằng, Balzac với tư cách một nghệ sĩ, rõ ràng nhà văn vẫn mãi mãi thán phục Vautrin khi ông miêu tả y như một vóc dáng khác thường của loạI người bất hợp pháp. Nhưng với cái nhìn sâu sắc tỉnh táo, Balzac đã thể hiện đúng qui luật phát triển của nhân vật này…Đến cuối Tấn Trò Đời, sau khoảng hai chục tác phẩm nữa, kẻ ngo ài vòng pháp luật này sẽ trở trở thành…kẻ bảo vệ pháp luật. Trong tác phẩm “Vinh và nhục P HN-VHPT 2 trang 54
  19. của người kĩ nữ” có chương “Sự hiển hiện cuối cùng của Vot’rin gặp lại Vautrin”, De Rastignac hỏi: “nhưng ông sẽ làm gì bây giờ ? Làm người cung ứng cho nhà giam, thay vì làm kẻ bị ngồ i trong đó”. Vaut’rin mỉa mai đáp. Các nhà nghiên cứu thường so sánh Hugo và Balzac: từ một mẫu người có thật, Vidock – tên ăn cướp sau trở thành người bảo vệ Luật pháp, làm một mật thám giàu có, nổi danh đến mức viết hồi kí thì Hugo biến hoá thành một ảo ảnh: Jean Valjean, còn Vautrin của Balzac vẫn gần với cái bình thường, hàng ngày hơn. Tuy nhiên, nếu hình ảnh sống động của “Ảo mộng tiêu tan” chỉ là cái bình thường hàng ngày - chất văn xuôi, thì nó cũng chưa chiếm một vị trí độc đáo như thế và nó cũng không thể khiến cho Engels - một triết gia vốn quan tâm đến t ương lai đã phát hiện ra kích thước thứ ba của cuộc sống ở đó. Chính yếu tố thời gian nghệ thuật này khiến cho các nhà nghiên cứu coi “Ảo mộng tiêu tan” không chỉ là một thiên tiểu thuyết, mà là một bài thơ, một bức tranh. Điều này làm cho “Ảo mộng tiêu tan” trở nên một tổng thể văn chương - một Tấn Trò Đời thu hẹp. Bên cạnh đó, để biến "Ảo mộng tiêu tan" thành một Tấn Trò Đời, gây cảm giác chỉnh thể không bị chia cắt, ngo ài sự có mặt của những nhân vật được tái hiện nhiều hơn cả trong tác phẩm này, Balzac, ở những lần in sau, còn xoá bỏ tên các chương hồI mà ta thấy ở lần xuất bản trước. Ngoài ra, ở đây đã xuất hiện hầu hết những đề t ài và chủ đề tài và chủ đề quan trọng nhất của to àn bộ tiểu thuyết thế kỉ 19. Thứ nhất là sự cô đơn của con người giữa một thế giới đông đúc con người, thứ hai là chủ đề “bán linh hồn cho quỉ sứ” – dù đó là một con người trong trắng thiếu khoa học có lẽ không sống nổi như David. Và cuối cùng, chủ đề "Ảo mộng tiêu tan": đây không còn là tên của một cuốn tiểu thuyết ; đó là những dòng chữ viết lên vầng trán bao thế hệ thanh niên của thế kỉ, đó là căn bệnh của thế kỉ. TẤN TRÒ ĐỜI một thế giới hoàn chỉnh Ý đồ nghệ thuật và thủ pháp nghệ thuật Ngày tháng chính thức công bố những dự định viết bộ “Tấn trò đời”: năm 1842 viết bài Tựa [chung cho toàn bộ], năm 1845 công bố phác hoạ tổng thể các thiên tiểu thuyết đó. Một công trình như thế, kích thước mang tính chất sử thi đã khiến M.Gorki phải “choáng ngợp” đã chứng tỏ độ chín muồi của tài năng khi nhà văn Balzac đã ý thức được hết sức mạnh của mình. Người ta thường dựa vào bài Tựa [1842] để phân tích những quan niệm chỉ đạo “Tấn trò đời”, nhưng thật ra còn có những bài tựa riêng cho các tác phẩm xuất bản lẻ tẻ, và hơn nữa, không chỉ dựa vào những văn bản lí luận đó, điều cốt yếu là thông qua toàn bộ hình tượng của tác phẩm chúng ta mới hi vọng hiểu biết đầy đủ những ý đồ của nhà văn. Dưới đây là danh mục tác phẩm “Tấn trò đời” do Balzac thảo ra và công bố 1845 [ít hơn số lượng thực tế]. Phần một Khảo cứu phong tục 1 - Những cảnh đời tư [gồm 32 tác phẩm, trong đó 4 mới là dự kiến]. Hiệu chú mèo đánh quần vợt. Vũ hội ở Soe. Hồi kí của hai thiếu phụ. Một cô con gái nàng Eva. P HN-VHPT 2 trang 55
  20. Đại tá Sabert. Gobsech. Người đàn bà ba mươi tuổi. Lão Goriot. Pierre Grassoe. Lễ Misa của người vô thần. Bảo trợ… 2- Những cảnh đời tỉnh lẻ [gồm 17 tác phẩm trong đó 6 dự kiến]. Hoa huệ trong thung lũng. Eugenie Grandet. Pierette. Linh mục thành Tour. Cô gái xua cá. Gosdisa cừ khôi. Cô gái già Phòng đồ cổ. Vỡ mộng [Ảo mộng tiêu tan]… 3- Những cảnh đời Paris [gồm 20 tác phẩm trong đó 6 dự kiến]. Feraguse. Bà công tước De Langgie. Cô gái mắt vàng. Viên chức. Ceda Birotto. Nhà ngân hàng Nucingen Fasino Canne. Dân tiểu tư sản… 4 - Những cảnh đời chính trị [gồm 8 tác phẩm trong đó 4 dự kiến]. Một chuyện dưới thời khủng bố. Một vụ ám muội. Người đại biểu của Arsi. Z. Marcaz… 5- Những cảnh đời nhà binh [gồm 23 tác phẩm trong đó 20 dự kiến]. Những người Chouans. Một dục vọng giữa sa mạc. Người chủ quán… 6- Những cảnh đời nông thôn. Linh mục nông thôn. Phần hai Khảo cứu triết học [gồm 27 tác phẩm trong đó 5 mới dự kiến]. Miếng da lừa. Chúa Jesus ở Flandre Menmos cáo lui Masimila Zonie. Kiệt tác vô danh. P HN-VHPT 2 trang 56

Page 2

YOMEDIA

CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TÂY ÂU [Từ giữa thế kỉ 19 đến những năm 60] Văn học hiện thực Pháp xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung hưng, phát triển mạnh mẽ cho đến những năm 60, có thể chia ra hai giai đoạn: trước và sau năm 1848. Sau cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830, chính quyền thuộc về giai cấp đại tư sản mà Marx gọi là bọn “quí tộc tài chính”. Đồng tiền thống trị mọi lĩnh vực xã hội với quyền lực và sức mạnh tha hóa của nó. ...

20-06-2011 374 76

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề