Đại diện nào của lớp giáp xác có giá trị kinh tế cao

Tầm quan trọng của giáp xác Do phân bố rộng, giáp xác giữ vai trò quan trọng trong hệ sinh thái là trung gian chuyển hoá vật chất, ăn mùn bã hữu cơ, thực vật, vi sinh vật và động vật bé để tạo nên hợp chất hữu cơ có chất lượng cao hơn. Hoá thạch của giáp xác [Conchostraca, Ostracoda] đã tìm thấy từ nguyên đại Cổ sinh, có giá trị chỉ thị địa tầng và tìm kiếm dầu khí. Nhiều giáp xác lớn là đối tượng khai thác có giá trị cao của ngành hải sản. Sản lượng khai thác hàng năm lên tới 1,9 triệu tấn, chủ yếu là tôm biển. Trong tự nhiên giáp xác là nguồn thức ăn rất quan trọng của nhiều loài cá ăn đáy và ăn nổi. Ví dụ như loài Euphausia superba là thức ăn chủ yếu của cá voi Nam Cực. Một số loài giáp xác nhỏ thuộc các giống Daphnia Moina được nuôi nhân tạo làm thức ăn cho cá nuôi. Tác hại của giáp xác không nhỏ. Bao gồm các loài sống bám như hà, sun [bộ Chân tơ], các loài đục gỗ như Limnoria, Chelura gây hại cho vỏ tàu thuyền dưới nước. Các loài chân kiếm, chân đều, mang đuôi ký sinh ở cá. Một số chân kiếm là vật chủ trung gian của sán dây. Cua núi là vật chủ trung gian cho các loài sán phổi. Loài cua Eriocheir sinensis di nhập vào biển Ban Tích đục phá đê biển. Tôm gõ mõ [Alpheidae] thường phát ra tiếng động gây nhiễm loạn thông tin đường biển Ở Việt Nam hiện nay đã biết khoảng 1.600 loài giáp xác. Các họ có thành phần loài phong phú và có giá trị kinh tế cao như tôm he [Penaeidae], tôm hùm [Palinuridae], cua bơi [Portunidae], cua rạm [Grapsidae], còng, cáy [Ocypodidae], tôm bọ ngựa [Squillidae] Nhiều loài được khai thác trực tiếp, một số loài khác được nuôi để xuất khẩu. Tôm he [Panaeidae]: Biển Việt Nam hiện nay biết khoảng 77 loài, có khoảng 50% số loài có giá trị xuất khẩu, khả năng khai thác hàng năm khoảng 5000 tấn. Các loài có giá trị cao như tôm bạc Paneus merguiensis, tôm thẻ trắng P. indicus], tôm thẻ P. semisulcatus, tôm sú P. monodon, tôm vằn P. japonicus, tôm nương P. chinensis, tôm rảo Metapaneus enisis, tôm bộp M. affinis, tôm vàng M. joyneri, tôm đuôi xanh M. intermedius và tôm sắt Parapenaeopsis hardwickii. Tôm hùm [Palinuridae và Nephropidae]: Ở biển Việt Nam hiện nay biết 13 loài có giá trị kinh tế. Chúng có tuổi thọ cao, có thể đến 15 năm, ấu trùng có thời gian biến thái kéo dài tới 1 năm, càng lớn lên càng xa bờ [đạt đến độ sâu là 150m - phổ biến ở độ sâu 50m]. Các loài có giá trị như Panurilus ornatus, P. versicolor, P. homarus, P. polyphagus, P. penicillatus, P. longipes, Linuparus trigonus [họ Palinuridae]; Metanephrops thomsoni, M. sinesis, Neophropsis stewari [Nephropidae]. Hương Thảo - Theo giáo trình ĐVKXS Tôm vỗ [Scyllaridae]: Ở biển Việt Nam hiện nay biết 9 loài, năng suất khai thác hàng năm tới 17.000 tấn, có 2 bãi khai chính là bãi tôm cù lao Thu và bãi tôm Đông Nam và Tây Nam mũi Cà Mau. Có 2 loài có giá trị kinh tế cao là Ibacuss ciliatus[chiếm 70% sản lượng khai thác] và Thenus orientalis. Khu hệ giáp xác nước ngọt đã biết 130 loài, trong đó có tôm càng Macrobrachium nipponense và M. hainanensis , tôm riu [Caridina, Leptocarpus ], cua đồng Somanithelphusa sinensis, tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergi có giá trị, được nuôi trồng nhiều.

Động vật giáp xác [Crustacea] còn gọi là động vật vỏ giáp hay động vật thân giáp là một phân ngành động vật Chân khớp lớn và đa dạng gồm hơn 44.000 loài như cua, tôm hùm, tôm càng, tôm, tôm nước ngọt, lân hà, Oniscidea và hà biển.[1] Chúng thường sống dưới nước và hô hấp bằng mang. Đa số các loài giáp xác sống ở biển, bên cạnh đó cũng có nhiều loài sống ở nước ngọt. Một vài nhóm giáp xác sống ở trên cạn không phải là những động vật thực sự thành công về mặt tiến hóa nhưng hầu hết chúng vẫn đòi hỏi một môi trường ẩm ướt để tồn tại. Rận nước có kích thước khoảng 2mm. Di chuyển nhờ vận động của đôi râu lớn. Rận nước mùa hạ chỉ sinh sản toàn con cái, là thức ăn chủ yếu của cá.

Phân ngành Giáp xácPhân loại khoa họcGiới [regnum]Ngành [phylum]Phân ngành [subphylum]Các lớp và phân lớp
Thời điểm hóa thạch: 511–0triệu năm trước đây

TiềnЄ

Є

O

S

D

C

P

T

J

K

Pg

N

Kỷ Cambri - Gần đây

Abludomelita obtusata [Amphipoda]

Animalia
Arthropoda
Crustacea
Brünnich, 1772

  • Lớp Branchiopoda [Chân mang]
Phân lớp Phyllopoda Phân lớp Sarsostraca
  • Lớp Remipedia [Chân chèo]
Bộ Enantiopoda Bộ Nectiopoda
  • Lớp Cephalocarida [Giáp đầu]
Bộ Brachypoda
  • Lớp Maxillopoda [Chân hàm]
Phân lớp Mystacocarida [Râu phiến] Phân lớp Copepoda [Chân kiếm] Phân lớp Branchiura [Mang đuôi] Phân lớp Pentastomida Phân lớp Tantulocarida
  • Lớp Ostracoda [Giáp trai]
Bộ Metacopina Phân lớp Myodocopa Phân lớp Podocopa
  • Lớp Malacostraca [Giáp mềm]
Phân lớp Eumalacostraca Phân lớp Hoplocarida Phân lớp Phyllocarida
  • Lớp Thecostraca
Phân lớp Ascothoracida Phân lớp Cirripedia Phân lớp Facetotecta

Mục lục

  • 1 Kích thước
  • 2 Hình dạng
  • 3 Sinh sản
  • 4 Lịch sử địa chất học
  • 5 Tham khảo
  • 6 Liên kết ngoài

Kích thướcSửa đổi

Động vật giáp xác có thể được chia thành hai nhóm chính dựa trên kích thước của chúng.

  • Nhóm có kích thước lớn: Bao gồm các đại diện của các lớp Branchiopoda [Chân mang], Copepoda [Chân chèo], Cirripedia [Chân tơ]
  • Nhóm có kích thước nhỏ: Bao gồm các loài có kích thước hiển vi cho tới kích thước khoảng 5cm. Hầu hết các loài này sống ở biển và là thành phần quan trọng của sinh vật phù du, đóng vai trò lớn trong chuỗi thức ăn.

Nhiều loài chân chèo là nguồn thức ăn cho cá nhỏ, thậm chí chúng là những con vật ký sinh trên da hay mang cá. Trong nhóm này, được biết rõ nhất là các thành viên trong giống Daphnia [rận nước] và Cyclops [thuộc bọ chân chèo].

Bộ chân đều [Isopoda] là nhóm duy nhất có đại diện là thành viên trên cạn thực sự. Trong nhóm này có thể kể đến rận cây, mọt gỗ, hay rệp tròn. Những sinh vật nhỏ này có thể được tìm thấy ở dưới các khúc cây đổ, dưới các tảng đá và những nơi ẩm thấp khác. Khi bị làm phiền chúng thường cuộn người lại vào bên trong bộ xương ngoài [lớp vỏ kitin].

Hình dạngSửa đổi

Tất cả động vật giáp xác có hình dạng phần đầu-ngực giáp với nhau, cơ thể được bao bọc với một bộ xương ngoài bằng kitin, nhờ lớp vỏ thấm calci và vôi hóa làm cho vỏ giáp xác rất cứng cáp, có loại vỏ có màu rất đẹp hay rất mỏng manh và trong suốt [như ở rận nước]. Vì lớp vỏ cố định nên nó phải được thay thế định kỳ khi con vật tiến hành quá trình biến thái [từ dạng ấu trùng bơi tự do cho đến khi trưởng thành] hay chỉ đơn giản là phát triển nhô ra ngoài lớp vỏ. Dạng ấu trùng bơi tự do đặc trưng cho giáp xác được gọi là ấu trùng Nauplius, là dạng có cơ thể không phân đốt, một mắt và 3 cặp chân giả.

Cũng như tất cả các thành viên khác trong ngành Động vật chân đốt, giáp xác trưởng thành có cơ thể và chân phân đốt. Các đốt thường liên kết lại tạo thành 2 phần phân biệt là đầu-ngực và bụng. Phần lớn động vật giáp xác trong nhóm lớn có phần đầu và ngực hợp lại thành phần đầu-ngực, phần này được bảo vệ bởi một phần của bộ xương ngoài khá lớn và được gọi là giáp đầu ngực. Trên đầu có hai cặp râu, một mắt điểm [điểm mắt], hai mắt kép và 3 cặp phụ miệng. Các phần phụ của giáp xác đã trải qua quá trình tiến hóa để thích nghi một cách đa dạng với các chức năng khác nhau như: bơi, bò, cơ quan cảm giác. Nhiều loài có cặp chân ngực thứ nhất biến đổi thành vuốt hoặc càng. Các mang thường được gắn ở phần gốc của các cặp chân ngực, vận động của chân ngực sẽ tạo dòng nước chảy qua mang, giúp cho quá trình hô hấp diễn ra.

Sinh sảnSửa đổi

Trừ chân mang là phân lớp nguyên thủy có sinh sản đơn tính, còn lại hầu hết lớp giáp xác đều sinh sản hữu tính, có giới tính phân chia rõ ràng. Nhiều loài trứng được giữ ở dưới các đốt bụng của con cái.

Lịch sử địa chất họcSửa đổi

Mặc dù các hóa thạch giáp xác hiếm hơn so với trùng ba lá nhưng số lượng các dạng của chúng khá phổ biến trong các lớp địa chất thuộc kỷ Creta cũng như trong Đại Tân sinh. Hầu hết những giáp xác nhỏ như tôm có bộ xương ngoài khá mỏng manh, do vậy các hóa thạch của chúng thường không đầy đủ. Tuy nhiên, các nhóm giáp xác như cua và tôm hùm có bộ xương ngoài dày hơn và nó thường được làm cứng bởi CaCO3, do vậy các hóa thạch của chúng thường tốt hơn. Các hóa thạch của động vật hầu như rất hiếm và người ta biết rất ít về lịch sử của chúng từ Đại Trung sinh trở về trước. Các mẫu được bảo tồn tốt nhất được tìm thấy trong các hóa thạch thuộc kỷ Creta và Đại Tân sinh.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Calman, William Thomas [1911]. “Crustacea”. Trong Chisholm, Hugh [biên tập]. Encyclopædia Britannica. 7 [ấn bản 11]. Cambridge University Press. tr.552.

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Động vật giáp xác.
  • ITIS Taxonomy Lưu trữ 2006-02-17 tại Wayback Machine Taxonomic Serial No.: 83677
  • Crustacea.net, an online resource on the biology of crustaceans
  • Cyclops, fresh water crustacean [copepod]

Video liên quan

Chủ Đề