Đánh giá triết học trung quốc cổ đại

Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung Quốc đất đai rộng lớn, có hai con sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang, là một trong những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử.
Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Trung Quốc. Triết học Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ III  tr.CN. Đây là thời kỳ biến đổi dữ dội, chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông – thời kỳ Đông Chu liệt quốc hay Xuân Thu chiến quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng như luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người chao đảo không biết đi về đâu.

Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc là thời kỳ hai chế độ xã hội chuyển giao, đấu tranh giai cấp gay gắt, chiến tranh liên miên. Đó là thời kỳ “Bá đạo lấn át vương đạo”, thời kỳ: Vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đạo đế vương mờ tối, người đời say đắm đường danh lợi, không ai muốn làm điều nghĩa nữa. Để góp phần cứu vãn tình thế đó, “Bách gia chư tử” ra đời. Nhiều nhà tư tưởng muốn trình bày quan điểm của mình, phê phán trật tự xã hội cũ, đề ra mẫu hình xã hội tương lai.

Phải nói lịch sử Trung Quốc, đây là thời kỳ có một không hai về tự do học thuật, bởi vậy, các trường phái triết học mọc lên như nấm gặp mưa rào. Nền văn minh Hoa Hạ rộng lớn đặc sắc đã được đặt nền móng từ đấy với các tư tưởng phong phú và đa dạng, phức tạp. Nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn nhiều khi rất gay gắt. Khái quát lại có 9 hệ thống triết họcchính xuất hiện: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia [có thuyết còn cho có thêm trường phái Tiểu thuyết gia]. Có thể khái quát một số đặc điểm của lịch sử xã hội Trung Quốc như sau:

Một là, công xã nông thôn được bảo tồn lâu dài trong suốt thời kỳ lịch sử cổ – trung đại, với hạt nhân của nó là chế độ đại gia đình phụ quyền [tông pháp] được xác lập vững chắc. Địa vị của người con trưởng quan trọng nhất trong nhà, trách nhiệm cũng lớn nhất, được hưởng gia tài, giữ việc hương khói.

Hai là, ở Trung Quốc, nhà nước ra đời trên cơ sở trình độ kỹ thuật còn non kém [đồ sắt chưa được sử dụng  phổ biến]; trong xã hội, mức độ phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Hình thức bóc lột là hình thức cống nạp; tô và thuế nhập làm một. Mối quan hệ của các thành viên trong xã hội đối với nhà nước là quan hệ của thần dân đối với vua chứ không phải là mối quan hệ của công dân đối với nhà nước.

Ba là, ruộng đất công, trên nguyên tắc, toàn bộ đất đai trong toàn quốc là thuộc quyền sở hữu của nhà vua, mọi người dân chỉ có quyền sử dụng đất. Chỉ bằng một quyết định, nhà nước có thể tịch thu ruộng đất của bất cứ ai.

Bốn là, cho đến trước khi bị chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây xâm lược, trên đất nước Trung Quốc chưa hề có một cuộc cách mạng xã hội theo đúng nghĩa. Trong lòng xã hội, các kết cấu mới – cũ đan xen lẫn nhau, cùng cộng sinh bên nhau trong suốt quá trình lịch sử. Thế kỷ VIII tr.CN phân tầng xã hội đã bắt đầu biến đổi sâu sắc, kết cấu giai tầng phức tạp, xung đột đã gay gắt.
Năm là, Trung Quốc được gọi là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử, cho đến năm 1911, lịch sử Trung Quốc trải qua ba thời kỳ kế tiếp nhau: thời kỳ thượng cổ, cổ đại, trung cổ. Tuy nhiên, tư tưởng triết học Trung Quốc chỉ nở rộ ở nửa cuối thời kỳ cổ đại [vào thời Đông Chu] và được duy trì phát triển ít nhiều ở thời kỳ Trung cổ.

Xuất hiện và phát triển trong điều kiện như vậy, triết học Trung Quốc có một số đặc điểm cơ bản sau:  

1. Thứ nhất, triết học Trung Quốc nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Đây là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học thuyết khác nhau. Trong những kinh điển chủ yếu của Nho giáo [Kinh dịch, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử…] đều nhất quán tư tưởng “biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cùng cái tính của vạt vật trời đất”. Ngoài ra, các trường phái, học thuyết khác cũng thể hiện rõ quan điểm này, Trang Chu cho rằng, trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một…

2. Thứ hai, triết học Trung Quốc xuất phát từ con người, lấy con người làm vấn đề trung tâm. Nghiên cứu thế giới cũng chỉ nhằm làm rõ vấn đề con người. Tuy nhiên con người không được chú ý trên tất cả các mặt mà chỉ chú ý trên khía cạnh luân lý, đạo đức. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc rất mờ nhạt, còn trong triết học phương Tây lại đặt trọng tâm vào nghiên cứu thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được bàn tới nhằm giải thích thế giới. Do đó, khác với triết học Trung Quốc, trong triết học phương Tây, vấn đề bản thể luận rất đậm nét.

Về bản chất con người [tính người, Khổng Tử cho gần nhau [giống nhau], nhưng do tập quán, phong tục mà xa nhau [khác nhau] [“Tính tương cận, tập tương viễn”]; Mạnh Tự cho tính người [nhân tính] vốn thiện; Tuân Tử cho tính người vốn ác; Cáo Tử cho tính không thiện cũng không bất thiện. Đổng Trọng Thư đưa ra tính tam phẩm, còn Hàn Dũ đưa ra có tính ba bậc.
Về số phận con người, Nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử cho rằng con người có thể thắng được trời. Từ đó triết học Trung Quốc hướng đến mẫu người lý tưởng như sĩ, quân tử, đại trượng phu, thánh nhân.

3. Thứ ba, triết học Trung Quốc ít tồn tại dưới dạng triết học thuần túy mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau với những vấn đề cấu trúc xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Vì vậy, ở Trung Quốc ít khi có triết gia và các phần triết học độc lập. Cho nên, nếu ở phương Đông nói chung, Trung Quốc nói riêng triết học ẩn giấu đằng sau các khoa học khác thì ở phương Tây ngay từ đầu, triết học đã là một khoc học độc lập, các khoa học khác lại ẩn giấu ở đằng sau triết học ở vào buổi bình minh của nó.

4. Thứ tư, về mặt nhận thức, triết học Trung Quốc bàn nhiều về vấn đề trực giác tâm linh, những vấn đề phi lý tính. Phương pháp nhận thức này, xét về góc độ nào đó nó phù hợp với đối tượng mà nó đặt ra để nghiên cứu. Nó thường không được trình bày dưới dạng hình thức hệ thống lý luận lôgic như các tác phẩm triết học hiện đại. Nhìn chung, lý luận nhận thức trong triết học Trung Quốc là phiến diện, không xem giới tự nhiên là đối tượng nhận thức, mà chỉ nhận thức chủ yếu về mặt luân lý đạo đức.

5. Thứ năm, triết học Trung Quốc vừa thống nhất vừa đa dạng. Thống nhất ở chỗ nó đều nhằm mục đích ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh, chẳng hạn, Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Pháp gia đưa ra đường lối pháp trị; Mặc gia đưa ra đường lối kiêm ái; Đạo gia đường lối vô vi… Nó đa dạng ở chỗ có rất nhiều trường phái, khuynh hướng tư tưởng, với 9 trường phái và đặc biệt nổi bật hơn cả là 6 trường phái lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống, trong lịch sử xã hội là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia. Mỗi nhà đều có chủ trương, đường lối riêng của mình.

Trong các trào lưu triết học Trung Quốc cổ đại, thường đan xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt quyết liệt như ở phương Tây. Chẳng hạn như:

– Nho giáo về cơ bản là duy tâm, nhưng vẫn có những luận điểm duy vật, nhất là ở thời kỳ đầu.
– Đạo gia, Mặc gia, Âm Dương ngũ hành gia bên cạnh những luận điểm duy vật lại có cả những luận điểm duy tâm

Trong suốt chiều dài hơn 2.000 năm phong kiến Trung Hoa, các học thuyết cổ đại thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận thuộc về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập ra học thuyết mới cho nên sự phát triển của triết học Trung Quốc chủ yếu theo hướng từ từ thay đổi về lượng mà ít thấy có sự nhảy vọt về chất.

6. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc thể hiện trong học thuyết biến dịch [Kinh dịch]; sự tương tác giữa âm dương, ngũ hành; trong học thuyết Lão Tử. Nhìn chung, biện chứng trong triết học Trung Quốc vẫn còn thô sơ, đơn giản, biện chứng vòng tròn, tuần hoàn khép kín.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng chủ đạo, kiến tạo nên hệ tư tưởng phong kiến Trung Quốc, song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng chủ đạo, đóng vai trò Trung Quốc.

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. CHƯƠNG III CH TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ,  TRUNG ĐẠI
  2. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết  học Trung Hoa cổ, trung đại. 1. Hoàn cảnh ra đời  của triết học Trung Hoa cổ,  trung đại.   1.1 Sự hình thành các quốc gia chiếm hữu  nô  lệ Trung Hoa. + Quá trình chuyển  hóa của XH công xã  nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các   quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa kéo dài  khỏang vài ba ngàn năm trước công nguyên.  Thời kỳ này có ba sự kiện quan trọng dẫn  đến sự ra đời của XH chiếm hữu nô lệ.
  3. – Toại nhân phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn  và rèn ra công cụ sản xuất. – Phục Hy phát minh ra lưới để săn thú, bắt cá và  thuần dưỡng gia súc. – Thần Nông phát minh ra cách trồng lúa nước và  làm  ra  lưỡi  cày  đặt  nền  móng  cho  sự  ra  đời  của  nghề nông.  Những phát hiện nói trên làm cho LLSX phát  triển mạnh mẽ, thúc  đẩy sự ra của chế  độ chiếm  hữu  tư  nhân  về  TLSX,  phân  hóa  xã  hội  thành  những  giai  cấp  dẫn  đến  sự  ra  đời  của  chế  độ  chiếm hữu nô lệ Trung Hoa.
  4. XH chiếm hữu nô lệ Trung Hoa phát triển qua các  triều đại Nhà Hạ, Nhà Ân [ Thương] và đạt đến sự  phát triển hòan thiện ở triều  đại Nhà Chu. + Đặc điểm thời kỳ Nhà Chu: Do kế thừa được kinh nghiệm SX của lịch sử để  lại, do thiên nhiên thuận lợi cùng với sự quản lý xã  hội chặt chẽ làm cho XH Nhà Chu phát triển mạnh  mẽ. ­Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà Chu quản lý ruộng đất  theo phương pháp tĩnh điền. ­Trong lĩnh vực XH: Nhà Chu tổ chức theo các quy  tắc chặt chẽ [ vua, chư hầu...]; xã hội phân chia  thành các đẳng cấp.
  5. 1.2.Thời kỳ Xuân Thu ­ Chiến  Quốc [770 – 221 TCN]. 1.2.Th Thời kỳ này có những đặc điểm như sau: ­  Do  sự  phát  triển  của  SX  mà  đặc  biệt  là  SX  nông nghiệp tạo  điều kiện cho sự chuyên môn hóa  ngày càng sâu sắc các ngành thủ công nghiệp dịch  vụ dẫn đến sự hình thành các đô thị PK. ­  Phân  hóa  XH  diễn  ra  sâu  sắc  dẫn  đến  chiến  tranh  liên  miên  giữa  bảy  nước  [Tề,  Tần,  Sở,  Hàn,  Ngụy, Triệu,Yên] làm cho thời đại Xuân Thu chuyển  thành thời đại Chiến Quốc.                Trong  sự  chuyển  mình  dữ  dội  của  lịch  sử,nhiều  trường  phái  triết  học  ra  đã  đời  tạo  thành hệ thống triết học khá hòan chỉnh. 
  6. 2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ,  2.  trung đại. Thứ  nhất  là  nền  triết  học  nhấn  mạnh  tinh  thần  nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ,  trung  đại, tư tưởng liên quan  đến con người như  triết  học  nhân  sinh,  triết  học  đạo  đức,  triết  học  chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học  tự nhiên có phần mờ nhạt.   Thứ  hai  là  các  triết  gia  Trung  Hoa  đều  tập  trung  vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành  đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất  của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh  hoạt xã hội.
  7. Thứ  ba  là  triết    học  Trung  Hoa  ít  có  những  cuộc  cách mạng lớn, chủ yếu là có tính cải cách; các  trường  phát  triết học  đi  sau  thường  kế  thừa  và  phát  triển  tư  tưởng  của  các  trường  phái  đi  trước. Thứ tư là trong lịch sử triết học Trung Hoa, tư tưởng  duy vật và tư tưởng duy tâm thường  đan xen vào  nhau  trong  quan  điểm  của  một  trường  phái  triết  học.
  8. II. Các trường phái triết học Trung Hoa  II. C cổ, trung đại 1. Thuyết Âm­ Dương , Ngũ Hành. 1.1. Tư tưởng triết học về Âm­ Dương. Theo  quan  niệm  của  Triết  học  Trung  Hoa  cổ  đại:  âm  và  dương  là  khái  niệm  chỉ  hai  khuynh  hướng  đối lập nhau, nhưng lại liên hệ tác  động lẫn  nhau,  thống  nhất  với  nhau  tạo  nên  sự  vận  động  phát triển của sự vật. VD: Dương:  mặt  trời  [nóng],  sáng  ,  cao,    giai  cấp thống trị,Quân tử, giống đực,chồng…             Âm:  trái  đất [lạnh], tối , thấp,  giai cấp bị  trị, Tiểu nhân, giống cái, vợ…       
  9. Tóm  lại,  bằng  quan  niệm  âm  dương  triết  học  Trung  Hoa  cổ  đại  đã  thừa  nhận  các  mặt  đối  lập  tồn  tại  khách  quan.Chính  sự liên hệ tác động của các mặt đối lập đã  thúc  đẩy  sự  vận  động  phát  triển  của  sự  vật.  Đó  là  quan  điểm  duy  vật  biện  chứng  sơ khai về thế giới. 
  10. 1.2. Tư tưởng triết học về Ngũ  1.2. T hành. Thuyết ngũ hành cho rằng thế giới vật chất  là do kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo thành. 
  11.  Kim [kim loại] tượng trưng cho tính  chất: trắng, khô, cay, phía Tây.  Thuỷ [nước] tượng trưng cho tính  chất: đen, mặn, phía Bắc.  Mộc [gỗ] tượng trưng cho tính chất:  xanh, chua, phía Đông.  Hoả [lửa] tượng trưng cho tính chất:  đỏ, đắng, phía Nam.  Thổ [đất] tượng trưng cho tính chất:  vàng, ngọt, ở giữa.
  12. • Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt  đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh ­  khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau: +  Tương  sinh  [sinh  hoá  cho  nhau]:  Thổ  • sinh  Kim,  Kim  sinh  Thuỷ,  Thuỷ  sinh  Mộc,  Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ,... +  Tương  khắc  [chế  ước  lẫn  nhau]:  Thổ  • khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim,  Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ...
  13. Tóm lại: bằng quan niệm ngũ hành, triết  học  Trung  Hoa  cổ  đại  thừa  nhận  thế  giới  xung  quanh  ta  là  thế  giới  vật  chất,  các  sự  vât, hiện tượng của thế giới có sự liên hệ tác  động  lẫn  nhau  tuân  theo  quy  luật.  Quan  điểm  nói  trên  về  thế  giới  tuy  còn  mộc  mạc  chất phác nhưng rất đáng trân trọng.
  14. 2. Trường phái Nho Gia. 2. Tr 2.1. Khổng Tử [551­ 479 tr.CN].   *Thân thế và sự nghiệp  Khổng Tử    Khổng  Tử  là  người  mở  đầu  khai  sinh  ra  trường  phái  Nho  gia.  Ông  tên  thật  là  Khổng  Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra tại nước Lỗ, nay  thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.
  15. Ông  sinh  ra  trong  gia  đình  quý  tộc  nhưng  đã bị sa sút. Cha của Khổng Tử  đã  từng  làm  quan  võ  của  nước  Lỗ,  có  lúc làm quan đại phu của nước Lỗ.   Khổng Tử ra  đời khi cha  đã già, mồ  côi cha năm hơn hai tuổi.
  16. Khổng  Tử  là  người  thông  minh,  ôn  hòa, nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu học.  Với  ông  [học  không  biết  chán,  dạy  không  biết mỏi]. Ông là người đầu tiên mở trường  học ở Trung Quốc.     
  17. • Khổng  Tử  từng  làm  quan  nhưng  không  được  trọng  dụng.  Cuộc  đời  ông  không  thành đạt trong quan trường nhưng lại rực  rỡ trong lĩnh vực giáo dục, trong triết học  nhân sinh. Vì thế Khổng Tử  được tôn vinh  là “ Vạn thế sư biểu” • Khổng Tử mất vào năm 72 tuổi.
  18. Khổng Tử viết nhiều tác phẩm      *  Quan  điểm triết học của Khổng Tử về  chính trị xã hội      + Quan niệm về đức nhân  Theo  Khổng  Tử,  đức  nhân  có  nhiều  nghĩa, nhưng nghĩa chính là thương người,  là nhân  đạo  đối với con người. Nhân cũng  là đức hạnh của người Quân tử.
  19. Theo Khổng Tử,    Nhân  là: ­ Yêu người ­ “ái nhân” ­ Cái gì mình không muốn thì  đừng làm cho người  khác “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. ­ Mình muốn thành  đạt thì giúp người khác thành  đạt,  mình  muốn  lập  thân  thì  giúp  người  khác  lập  thân “kỷ dục lập  nhi  lập  nhân, kỷ  dục  đạt nhi  đạt  nhân”. ­ Bắt mình phải làm theo lễ “ Khắc kỷ, phục lễ vi  nhân”. ­ Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. ­ Nhân­ Trí­ Dũng
  20. Đặc biệt là đối với tầng lớp Quân tử. Ông  cho rằng, đối với người làm chính trị quản  lý xã hội, muốn có đức nhân phải có năm  điều: Một là kính trọng dân. Hai là khoan dung độ lượng với dân Ba là giữ lòng tin với dân Bốn là mẫn cán [tận tụy trong công việc.] Năm là đem lòng nhân ái đối xử với dân.

Page 2

YOMEDIA

Quá trình chuyển hóa của XH công xã nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa kéo dài khỏang vài ba ngàn năm trước công nguyên. Thời kỳ này có ba sự kiện quan trọng dẫn đến sự ra đời của XH chiếm hữu nô lệ. XH chiếm hữu nô lệ Trung Hoa phát triển qua các triều đại Nhà Hạ, Nhà Ân [ Thương] và đạt đến sự phát triển hòan thiện ở triều đại Nhà Chu.

16-06-2011 1043 164

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Chủ Đề