Đào tạo kỹ năng mềm cho học sinh, sinh viên giáo dục nghề nghiệp

Việc đào tạo lại, đào tạo cập nhật kỹ năng cho người lao động đáp ứng nền kinh tế số và công nghệ 4.0 đòi hỏi hình thức tổ chức đào tạo nghề cần phải đổi mới, linh hoạt và theo hướng mở để người học có thể lựa chọn chương trình và kế hoạch học tập phù hợp.

Nhiệm vụ của giáo dục nghề nghiệp trong tình hình mới rất nặng nề.

Mỗi cơ sở đào tạo nghề cần chứng minh năng lực đào tạo nguồn nhân lực của mình bằng minh chứng nguồn nhân lực do mình đào tạo có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Không những thế, còn đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn công nghệ vốn ngày càng đổi mới và khắt khe hơn bao giờ hết.

Cách mạng công nghiệp 4.0 và tình hình mới đang mở ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho các lĩnh vực, trong đó có giáo dục đào tạo. Các cơ sở dạy nghề đang gặp nhiều thách thức cụ thể:

Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đang phải trải qua một thời kỳ thực sự khó khăn do cả thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng chưa từng có. Với các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội đang được áp dụng theo những hình thức khác nhau, khủng hoảng y tế toàn cầu đang nhanh chóng trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trên toàn thế giới.

Theo những ước tính mới của ILO, các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện đã ảnh hưởng tới 2,7 tỷ người lao động, tức 81% lực lượng lao động toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này, theo cách trực tiếp và gián tiếp, đã tạo ra một xu thế làm việc mới của thị trường lao động: làm việc trực tuyến. Theo đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần thay đổi phương thức đào tạo trong tình hình mới, kết hợp đẩy mạnh số hóa nội dung đào tạo với trang bị kỹ năng làm việc trực tuyến cho người học.

Thứ hai, kiến thức nền tảng của nhiều ngành nghề thay đổi bởi sự thay đổi của cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến các kiến thức và tiêu chuẩn nghề nghiệp mới. Nhiều ngành nghề truyền thống biến mất, nhiều ngành nghề mới xuất hiện. Do đó, các cơ sở đào tạo phải cập nhật nhiều kiến thức mới, công nghệ mới và kỹ năng nghề nghiệp mới trong hiện tại và tương lai.

Thứ ba, việc đào tạo lại, đào tạo cập nhật kỹ năng cho người lao động đáp ứng nền kinh tế số và công nghệ 4.0 đòi hỏi hình thức tổ chức đào tạo nghề cần phải đổi mới, linh hoạt và theo hướng mở để người học có thể lựa chọn chương trình và kế hoạch học tập phù hợp.

Thứ tư, việc các tập đoàn lớn dịch chuyển chuỗi sản xuất khỏi Trung Quốc cộng với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU [EVFTA] và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU [EVIPA] dự kiến có hiệu lực từ tháng bảy được coi là cơ hội để Việt Nam đón các công ty toàn cầu đến đầu tư cũng như mở ra cơ hội cho doanh nghiệp nội tham gia chuỗi cung ứng mới do đó đòi hỏi việc trang bị kỹ năng cho người lao động để sẵn sàng đón đầu xu hướng mới của thị trường lao động là rất quan trọng.

  1. Công tác đào tạo, trang bị kỹ năng nghề cho HSSV Trường Cẳng Cơ điện Hà Nội, đáp ứng thị trường lao động trong tình hình mới

Nhằm đối diện và giải quyết những thách thức về giáo dục nghề nghiệp trong tình hình mới, Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội đã thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo nghề theo hướng mở và linh hoạt.

Nhà trường đã thiết kế chương trình đào tạo linh hoạt theo định hướng “ứng dụng”, thường xuyên được cập nhật, “chuẩn đầu ra” các chương trình đào tạo được công khai và đảm bảo đánh giá định lượng được. Các chương trình đào tạo được xây dựng và điều chỉnh, bổ sung hàng năm với tiêu chí cập nhật các kỹ năng nghề nghiệp mới, công nghệ mới, nội dung mới nhằm nâng cao sự phù hợp của chương trình đào tạo với các yêu cầu từ thị trường lao động.

Xây dựng các chương trình đào tạo có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn và điển hình trong lĩnh vực nghề nghiệp để kịp thời cập nhật các tiêu chuẩn nghề nghiệp và công nghệ mới. Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội đã xây dựng các chương trình hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp lớn như VINFAST, TOYOTA, DENSO với các hoạt động đào tạo song hành, giám sát và đánh giá độc lập để đảm bảo chất lượng đào tạo sinh viên đáp ứng tốt với yêu cầu của các doanh nghiệp tuyển dụng lao động. Mô hình này được kỳ vọng là “then chốt” trong chiến lược nâng cao hiệu quả đào tạo kỹ năng kết hợp với việc giải quyết việc làm cho sinh viên của Nhà trường.

Chú trọng nâng cao số lượng các chương trình đào tạo chất lượng cao, các chương trình đào tạo hợp tác quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác liên kết đào tạo với các quốc gia có nền giáo dục nghề nghiệp tiên tiến. Học hỏi và áp dụng các mô hình quản lý giáo dục mở và tiên tiến. Chia sẻ kinh nghiệm đào tạo và chương trình đào tạo tiến tới công nhận bằng cấp hoặc đào tạo bằng kép.

Việc tổ chức và quản lý đào tạo được Nhà trường thực hiện mềm dẻo và linh hoạt, giúp người học có thể chủ động lựa chọn chương trình và kế hoạch học tập phù hợp. Đào tạo nhiều cấp trình độ: Cao đẳng, Trung cấp, Sơ cấp, chuyển giao công nghệ trong đó chú trọng đến việc liên thông giữa các cấp trình độ. Bên cạnh đào tạo chuyên môn cũng cần đào tạo kỹ năng mềm và kỹ năng khởi nghiệp nhằm trang bị thêm kỹ năng bổ trợ cho người học trong quá trình cạnh tranh nghề nghiệp sau khi ra trường.

Đổi mới phương pháp đào tạo để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong đào tạo. Kết hợp đào tạo trực tuyến và đào tạo trực tiếp. Hướng tới việc trợ giúp, giám sát sinh viên tự học và chuẩn bị bài ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào chỉ với các thiết bị thông minh kết nối internet. Phần đào tạo trực tiếp tập trung phát triển các kỹ năng, năng lực thực hiện nghề nghiệp cũng như các phẩm chất cá nhân khác như: kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề.

Việc đánh giá kết quả đào tạo luôn có sự tham gia của doanh nghiệp nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu của doanh nghiệp đối với nguồn nhân lực. Việc này là kết quả của một quá trình đào tạo “gắn với doanh nghiệp” trong đó doanh nghiệp đồng hành cùng nhà trường trong suốt lộ trình đào tạo. Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng lộ trình đào tạo của nhà trường, giúp nhà trường cập nhật các tiêu chuẩn nghề nghiệp mới, công nghệ mới, các yêu cầu mới … qua đó nhà trường có cơ sở để cập nhật, điều chỉnh và bổ sung chương trình đào tạo hàng năm.

Một yếu tố quan trọng khác trong giáo dục nghề nghiệp đón đầu xu thế công nghiệp 4.0 là năng lực đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp mới. Việc đầu tư ngân sách công là cần thiết nhưng là không đủ nếu cơ sở đào tạo nghề không linh hoạt trong việc xã hội hóa nguồn lực đầu tư. Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội đã kết hợp với các doanh nghiệp như TOYOTA, Vinfast để đầu tư hạ tầng đào tạo và linh hoạt tiến hành đào tạo một số mô-đun thực tế tại doanh nghiệp nhằm nâng cao trải nghiệm và kỹ năng thực tế cho người học.

Trong bối cảnh toàn cầu đang hướng đến nền công nghiệp 4.0, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu của nền sản xuất thế hệ mới. Việc xây dựng một Chiến lược quốc gia về phát triển giáo dục nghề nghiệp  là cơ sở  quan trọng để giáo dục nghề nghiệp phát triển đáp ứng với những yêu cầu mới của nền sản xuất thế hệ mới. Theo đó đòi hỏi  thay đổi mô hình quản lý đào tạo nghề  theo hướng mở và linh hoạt, cung cấp các kỹ năng cần thiết gắn với việc làm cho người học, đảm bảo cơ hội học tập suốt đời và bình đẳng cho mọi người; gắn đào tạo với doanh nghiệp để thích ứng với kiến thức, kỹ năng mới, công nghệ mới. Bám sát  Nghị quyết 29 – NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó đã nêu  rõ mục tiêu của đổi mới giáo dục nghề nghiệp  những năm tới là “Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, đảm bảo đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.”

Đồng Văn Ngọc

Hiệu trưởng CĐ Cơ điện Hà Nội

Theo UNESCO mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Nếu xem nhận định trên là một định nghĩa và đối chiếu định nghĩa này với nên giáo dục của Việt Nam ngày nay thì mục đích học tập của ta mới chỉ là học để biết, nghĩa là chỉ đạt được một trong bốn mục tiêu của UNESCO. Chính vì vậy khi sinh viên tham gia phỏng vấn tuyển dụng thường chỉ gây ấn tượng với nhà tuyển dụng bằng bằng cấp, khả năng chuyên môn, kinh nghiệm làm việc... Thế nhưng, bạn nên biết rằng năng lực của con người được đánh giá trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Điều đó khẳng định rằng học không chỉ để biết mà học còn để làm việc, để chung sống và để tự khẳng định mình. Những năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng nhắc nhiều đến cụm từ “kỹ năng”, “kỹ năng mềm” và “kỹ năng cứng”.

Vậy thế nào là kỹ năng, kỹ năng mềm và kỹ năng cứng?

Kỹ năng là khả năng thực hiện một công việc nhất định, trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định, đạt được một chỉ tiêu nhất định. Các kỹ năng có thể là kỹ năng sống, kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp. Mỗi người học nghề khác nhau thì có các kỹ năng khác nhau nhưng các kỹ năng sống và kỹ năng mềm là các kỹ năng cơ bản thì bất cứ ai làm nghề gì cũng nên có và cần phải có.

Kỹ năng mềm [soft skills] – trí tuệ cảm xúc: là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người - thường không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, càng không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Nhưng, kỹ năng mềm lại quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.

Ngược lại, kỹ năng cứng [hard skills] – trí tuệ logic: chính là khả năng học vấn của bạn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn. Những kiến thức đó dù học tốt tới đâu trong 4 - 5 năm đại học thì nó cũng chỉ là một phần nhỏ trong cái đại dương mênh mông kiến thức sau này của đời con người.

Thực tế cho thấy kỹ năng cứng tạo tiền đề, và kỹ năng mềm tạo nên sự phát triển. Người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang bị. Chìa khóa dẫn đến thành công thực sự là bạn phải biết kết hợp cả hai kỹ năng này một cách khéo léo.

 Làm thế nào để rèn luyện kỹ năng?

Sinh viên trước hết phải xác định rõ công việc mình muốn làm sau khi ra trường, sau đó phân tích xem đối với công việc đó, đâu là kỹ năng “cứng”, đâu là kỹ năng “mềm”. Chẳng hạn với vị trí nhân viên phòng Kinh doanh thì kỹ năng giao tiếp, thuyết phục khách hàng lại chính là kỹ năng “cứng”, hay chính là chuyên môn của nghề nghiệp. Nhưng với vị trí Lập trình viên máy tính thì đương nhiên đó là những kỹ năng “mềm”. Việc xác định rõ “mềm”, “cứng” và nhận ra điểm mạnh, điểm yếu, những mặt thiếu hụt của bản thân là yêu cầu đầu tiên và rất quan trọng để trau dồi kỹ năng “mềm”. Các bạn phải tập kỹ năng hàng ngày, cũng như tập viết, tập đọc thì mới nhuần nhuyễn được. Hãy nhớ rằng, xã hội ngày này là một xã hội thay đổi, cần sự uyển chuyển chứ không cần sự cứng nhắc.

Có những bạn sinh viên năng động, tự tìm kiếm các cơ hội để học tập trau dồi các kỹ năng mềm cho bản thân. Nhưng phần nhiều các bạn sinh viên chưa biết đến kỹ năng mềm cũng như chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong cuộc sống ngày nay, nên chỉ nghĩ rằng học thật giỏi là đủ và chắc chắn sẽ có một tấm vé khi vào đời, quan điểm này không sai nhưng chưa đủ. Bạn học giỏi chuyên môn, nhưng chưa chắc bạn có thể thích ứng nhanh với công việc hay sự thay đổi về “môi trường” cuộc sống. Bạn có thành tích học tập mà ai nhìn vào cũng thật đáng nể nhưng chưa chắc đã có được cảm tình với nhà tuyển dụng, đó là bạn đã thiếu một yếu tố quan trong đó là kỹ năng mềm. Bạn học không xuất sắc, nhưng bạn luôn mạnh rạn, tự tin trong bất kỳ tình huống thay đổi nào, bạn luôn đạt được kết quả tốt nhất, đó là bạn đã có kỹ năng mềm.

Tuy nhiên, kỹ năng mềm cần được nghiêm túc nhìn nhận là một quá trình tích lũy. Tân sinh viên dựa trên những khả năng của bản thân, mục tiêu trong tương lai để xây dựng lộ trình rèn luyện các kỹ năng qua mỗi năm học; từ đó đến khi ra trường, bạn sẽ tự tin với năng lực của mình cùng với bộ hồ sơ xin việc hoàn hảo.

Với sinh viên Trường Đại học Lạc Hồng bắt đầu từ năm 2013 các bạn sẽ được học một số kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo chính khóa. Ngoài ra sinh viên có thể học thêm các kỹ năng mềm khác tại Trung tâm đào tạo kỹ năng mềm của trường. Tại đây, sinh viên sẽ được tư vấn để chọn học các kỹ năng cần thiết và phù hợp với bản thân cũng như định hướng nghề nghiệp của sinh viên. Các lớp học cũng được thiết kế rất linh hoạt về thời gian, địa điểm, giáo trình…nhằm tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên có thể theo học và đạt hiệu quả cao nhất.

Để hiểu rõ hơn về kỹ năng mềm, bạn có thể tham khảo các kỹ năng mềm đang được giảng dạy một số nước:

Tại Mỹ: có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc:

     1.      Kỹ năng học và tự học [learning to learn].

2.      Kỹ năng lắng nghe [Listening skills].

3.      Kỹ năng thuyết trình [Oral communication skills].

4.      Kỹ năng giải quyết vấn đề [Problem solving skills].

5.      Kỹ năng tư duy sáng tạo [Creative thinking skills].

6.      Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn [Self esteem].

7.      Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động lực làm việc [Goal setting/ motivation skills].

8.      Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp [Personal and career development skills].

9.      Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ [Interpersonal skills].

10.    Kỹ năng làm việc đồng đội [Teamwork].

11.    Kỹ năng đàm phán [Negotiation skills].

12.    Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả [Organizational effectiveness].

13.    Kỹ năng lãnh đạo bản thân [Leadership skills].

Tại Úc các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng như sau:

     1.      Kỹ năng giao tiếp [Communication skills].

2.      Kỹ năng làm việc đồng đội [Teamwork skills].

3.      Kỹ năng giải quyết vấn đề [Problem solving skills].

4.      Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm [Initiative and enterprise skills].

5.      Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc [Planning and organising skills].

6.      Kỹ năng quản lý bản thân [Self-management skills].

7.      Kỹ năng học tập [Learning skills].

8.      Kỹ năng công nghệ [Technology skills].

Tại Canada bao gồm 6 kỹ năng như:

     1.      Kỹ năng giao tiếp [Communication].

2.      Kỹ năng giải quyết vấn đề [Problem solving].

3.      Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực [Positive attitudes and behaviours].

4.      Kỹ năng thích ứng [Adaptability].

5.      Kỹ năng làm việc với con người [Working with others].

6.      Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ và toán [Science, technology and mathematics skills].

Tại Anh cũng đưa ra danh sách 6 kỹ năng quan trọng bao gồm:

     1.      Kỹ năng tính toán [Application of number].

2.      Kỹ năng giao tiếp [Communication]

3.      Kỹ năng tự học và nâng cao năng lực cá nhân [Improving own learning and performance].

4.      Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông [Information and communication technology].

5.      Kỹ năng giải quyết vấn đề [Problem solving].

6.      Kỹ năng làm việc với con người [Working with others].

Tại Singapore đã thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề gồm 10 kỹ năng:

      1.      Kỹ năng công sở và tính toán [Workplace literacy & numeracy].

2.      Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông [Information & communications technology].

3.      Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định [Problem solving & decision making].

4.      Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm [Initiative & enterprise].

5.      Kỹ năng giao tiếp và quản lý quan hệ [Communication & relationship management].

6.      Kỹ năng học tập suốt đời [Lifelong learning].

7.      Kỹ năng tư duy mở toàn cầu [Global mindset].

8.      Kỹ năng tự quản lý bản thân [Self-management].

9.      Kỹ năng tổ chức công việc [Workplace-related life skills].

10.    Kỹ năng an toàn lao động và vệ sinh sức khỏe [Health & workplace safety].

Tác giả: knm-lhu

Video liên quan

Chủ Đề