Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt được sử dụng khá nhiều trong các các tác phẩm văn học. Để giúp các em học sinh hiểu hơn về cách dùng và tránh lạm dụng quá nhiều trong văn viết. Hôm nay chúng ta hãy cùng tìm hiểu những ví dụ về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nhé!
Những kiến thức cần nhớ
Xét ví dụ về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:
[Buổi trưa, tại khu tập thể Nam Long, hai bạn Thu và Dung gọi Lan đi học]
– Lan ơi! Đi học đi! [im lặng]
– Lan ơi! Đi học đi! [Thu và Dung gào lên]
– Làm gì mà ầm lên thế bọn mày! Không cho ai ngủ nghỉ gì nữa à! [tiếng một người phụ nữ nói to].
– Các cháu ơi, khẽ thôi chứ! Để cho các bác, các cô ngủ trưa với!
Nhanh lên con, Lan! [tiếng mẹ Lan nhẹ nhàng ôn tồn]
– Đây rồi, ra ngay đây! [tiếng Lan nhỏ nhẹ]
– Gớm, làm gì mà cứ chậm như rùa ấy! Cô giáo phê bình chết thôi! [tiếng Thu càu nhàu]
– Hôm nào cũng chậm chạp y như con vịt bầu! [tiếng Dung tiếp lời]
- Cuộc hội thoại diện ra trong hoàn cảnh:
– Không gian: Khu tập thể Nam Long
– Thời gian: Buổi trưa
- Các nhân vật: Dung, Thu, Lan, mẹ Lan và người phụ nữ
- Nội dung cuộc hội thoại: Dung và Thu gọi Lan đi học, người đàn ông tỏ thái độ phê phán vì sự ồn ào mà các bạn gây ra, mẹ Lan ôn tồn nhắc nhở, Lan nói nhỏ nhẹ.
- Các đặc điểm của từ ngữ trong đoạn hội thoại: Đều dùng những từ ngữ hết sức quen thuộc, gần gũi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Có thể bạn quan tâm: Lí luận văn học là gì? Nêu những đặc điểm cơ bản
– Sử dụng các từ hô gọi như: “ơi”, “với”
– Sử dụng các từ ngữ tình thái: “à”, “rồi”
– Sử dụng các từ ngữ thân mật: “bọn mày”
– Sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ: “gớm”, “chết thôi”
– Cách sử dụng câu trong đoạn văn: câu đặc biệt, câu tỉnh lược
Kết luận về ví dụ phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
- Khái niệm về ngôn ngữ sinh hoạt:
Ngôn ngữ sinh hoạt là khái niệm để chỉ toàn bộ lời ăn tiếng nói hàng ngày mà con người dùng để thông tin, trao đổi ý nghĩ, tình cảm với nhau, đáp ứng những nhu cầu tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày.
- Các dạng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:
– Dạng nói: Độc thoại, đối thoại, độc thoại nội tâm, kể chuyện,…
– Dạng viết như: Nhật ký, hồi ức cá nhân, thư từ, email,…
– Dạng lời nói tái hiện trong tác phẩm văn học: Mô phỏng lời thoại tự nhiên nhưng
có sự sáng tạo theo các thể loại văn bản khác nhau: Kịch, tuồng, chèo, truyện,…
Đọc thêm bài viết –Tài liệu 21 đề thi môn Toán vào lớp 10
Hướng dẫn cách làm bài tập
Trong ca dao
– Ca dao là một dạng lời nói được tái hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Tác giả dân gian bắt chước lời nói tự nhiên nhưng không hoàn toàn mà có cải biến cho phù hợp. Do đó, dấu ấn của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt vẫn còn rất đậm: Mình, ta, về, nhớ, chăng, hỡi cô, lòa xòa,…
– Đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày vào thơ lục bát. Lời nói được tác giả dân gian sáng tạo theo quy tắc nhịp điệu, vần điệu, hài thanh,…. [Các em sẽ tập chuyển như yêu cầu của bài tập đưa ra].
Trong tác phẩm văn học
Cũng là dạng lời nói được tái hiện trong các tác phẩm nghệ thuật, như những tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Ngôn ngữ được sử dụng cũng là ngôn ngữ sinh hoạt nhưng có sự lặp lại dư thừa theo nhịp điệu khiến cho lời thoại đẹp hơn, hùng tráng hơn. Đặc biệt, nó còn mang cả sắc thái và vẻ đẹp kì vĩ của những con người Tây Nguyên vào tác phẩm.
Ví dụ về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, các em có thể phân tích trong tác phẩm “Chiến thắng Mtao Mxây”. Chúng ta sẽ phân tích và chứng minh qua đoạn đối thoại của các nhân vật. Theo đó, trong các tác phẩm nghệ thuật sẽ có dạng lời nói tái hiện, bắt chước lời thoại tự nhiên, nhưng có sáng tạo nhất định. Tuy nhiên, lời nói tự nhiên được biến cải theo thể loại và ý định chủ quan của người viết.
Bài luyện tập củng cố
Đề: Trích đoạn thơ sau đây tuy thuộc văn bản nghệ thuật, nhưng tác giả có sử dụng những chi tiết của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Các em hãy phân tích điều đó.
“Chúng tôi đi
Có thể bạn quan tâm: Giáo án Văn 10 cả năm đầy đủ
Nắng mưa sờn, mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.”
Trả lời: Đoạn thơ trên tuy thuộc văn bản nghệ thuật, nhưng tác giả có sử dụng những chi tiết mang phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Cụ thể:
- Về nội dung: Đoạn thơ thuật lại cảnh sinh hoạt đời thường gần gũi hằng ngày của một đơn vị bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Những hình ảnh, chi tiết trong sự việc được thuật lại rất cụ thể [nắng mưa sờn mép ba lô, nghỉ lại lưng đèo, nằm trên dốc nắng, quờ chân tìm hơi ấm,…].
- Trong đoạn trên có một đoạn hội thoại giữa những người lính, ở đó họ dùng những từ xưng hô thân mật và cả từ ngữ địa phương, khẩu ngữ [đằng nớ, tớ,…].
Trên đây là những khái niệm và ví dụ về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Các em có thể tham khảo để biết cách phân biệt và sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt trong các văn bản khác nhau. Hy vọng bài viết đã mang đến những thông tin bổ ích giúp các em học ngữ văn tốt hơn.
BÀI. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ SINH HOẠT
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về khái niệm ngôn ngữ sinh hoạt
Ngôn ngữ sinh hoạt là khái niệm chỉ toàn bộ lời ăn tiếng nói hàng ngày mà con người dùng để thông tin, suy nghĩ, trao đổi ý nghĩ, tình cảm với nhau, đáp ứng những nhu cầu tự nhiên trong cuộc sống.
2. Các dạng thể hiện của ngôn ngữ sinh hoạt
– Dạng nói, gồm các kiểu: đối thoại, độc thoại và đàm thoại [qua các phương tiện nghe nhìn].
– Dạng lời nói bên trong, gồm các kiểu:
+ Độc thoại nội tâm: là tự mình nói với mình nhưng không phát ra thành tiếng.
+ Đối thoại nội tâm: tự tưởng tượng ra một người nào đó đang trò chuyện với mình, đối đáp như một cuộc thoại.
+ Dòng tâm sự: là những suy nghĩ bên trong thành một chuỗi mạch lạc, trong đó có thể có cả đối thoại và độc thoại nội tâm.
II. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
1. Thể hiện đúng giọng điệu các đoạn ghi chép
Chú ý phần gợi ý [trong ngoặc]. Để thể hiện được đúng và biểu cảm những đối thoại trong đoạn văn, cần nắm được nội dung của toàn đoạn. Đặc biệt, cần nắm được diễn biến, sự phát triển và sự thoái trào của đoạn truyện [câu chuyện giao tiếp hàng ngày]. Lời gọi đầu tiên có tính chất bình thường rồi nó được tăng lên [khi Lan và Hùng gào lên] và bắt đầu giảm xuống khi Hương xuất hiện.
2. Trong hoạt động giao tiếp, thường người ta nói ra những điều mà mình nghĩ
Nhưng không phải bao giờ suy nghĩ bên trong và lời nói ra cũng đồng nhất với nhau. Suy nghĩ và lời nói không thống nhất xảy ra trong trường hợp người nói chủ động nói ra những điều không thật hay hoàn cảnh nói không cho phép thông tin được nói ra ngay lúc ấy [Bác sĩ nói với bệnh nhân về tình trạng bệnh tật, thông tin về cái chết…]. Còn rất nhiều điều khác tác động đến việc người ta có nói thật lòng mình hay không.
Câu châm ngôn: Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói là lời khuyên hãy suy nghĩ kĩ càng trước khi nói ra những điều mà mình mong muốn. Câu châm ngôn còn nhắc nhở ta về cách nói, nghĩa là phải nói như thế nào cho đúng, cho khéo, cho phù hợp với lòng người.
Có những lời khen nhưng lại khiến người khác không đồng ý. Có những lời góp ý [thậm chí chê bai] mà người khác vẫn bằng lòng. Tất cả những điều ấy có khi không nằm ở phần thông tin mà nằm ở cách nói. Một lời khen vụng về, lộ liễu sẽ có thể khiến người khác phật lòng. Nhưng một lời góp ý chân thành khéo léo lại giúp tình bạn, tình đồng nghiệp… của chúng ta thêm bền chặt. Dân gian ta từng khuyên nhủ và nhắc nhở chúng ta: Lời nói không quan trọng bằng cách nói, của cho không quan trọng bằng cách cho, nghĩa là từ lời nói đến hành vi nói năng còn có một khoảng cách nữa. Lời nói cũng là một nghệ thuật. Chính vì thế mà mới cần “học ăn, học nói, học gói, học mở”.
3. Về câu ca dao
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Đây là một lời khuyên của nhân dân ta về cách thức nói năng. Lời nói tuy “chẳng mất tiền mua” nhưng không phải cứ nói tùy tiện theo suy nghĩ và theo ý thích. Từ ngữ và ngữ pháp của tiếng Việt ta vô cùng phong phú cũng bởi vậy mà cùng một lời nói có thể có nhiều cách nói khác nhau. Lựa chọn cách nào để nói khiến người nghe được “vừa lòng” là điều ai cũng cần phải lưu tâm. Khi nói, chúng ta phải quan tâm đến hoàn cảnh, đến thứ bậc của mình và người nghe, đến mục đích của cuộc giao tiếp… có như vậy “lời nói” của chúng ta mới đạt được hiệu quả giao tiếp như mong muốn. Tuy nhiên, làm “vừa lòng nhau” cũng phải tùy từng hoàn cảnh. Nếu cứ làm “vừa lòng nhau” một chiều, thì không khác gì những người hay xu nịnh, thích vuốt ve. Lời nói thẳng thường đơn giản và hiệu quả, tuy không phải lúc nào cũng làm vừa lòng của người nghe.
Về câu ca dao:
Vàng thì thử lửa, thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
Đây là một kinh nghiệm sống. Trong cuộc sống, có nhiều tiêu chuẩn được đưa ra để đánh giá một con người. Một trong những tiêu chí ấy là lời ăn tiếng nói. Người “ngoan” là người biết ăn nói khiêm nhường, nhã nhặn, biết “kính trên nhường dưới”
4. Trong đoạn trích từ truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ, ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện ở dạng lời nói của nhân vật.
Lời nói nghệ thuật của nhân vật ở đây thực chất là một hình thức mô phỏng, bắt chước lời thoại tự nhiên những đã được sáng tạo và cải biến. Những “dấu hiệu” của lời nói tự nhiên trong lời của nhân vật là:
– Những yếu tố dư có tính chất đưa đẩy nhằm tạo ra sự sồng sã và thân mật: xong chuyện, gì hết, chẳng qua, ngặt tôi,…
– Những từ ngữ địa phương nhằm tạo ra nét “đặc trưng Nam Bộ” cho tác phẩm như: rượt [đuổi] người, cực [phiền, đau] lòng, phú quới [phú quý]…
Sự xuất hiện của các yếu tố ngôn ngữ mang phong cách ngôn ngữ sinh hoạt trong đoạn văn này không phải là một sự ngẫu nhiên. Sự xuất hiện ấy rõ ràng có tính chất khắc họa thêm tính cách của nhân vật [sự hoà nhập và mong muốn được tiêu diệt đàn cá sấu hung dữ nhằm bảo vệ sự bình yên của mọi người]. Bên cạnh đó sự xuất hiện của các yếu tố ngôn ngữ này [như đã nói] nhằm tạo ra “màu sắc Nam Bộ” cho tác phẩm. Nó là một cách để nhà văn khơi gợi trí tò mò và sự thích thú của người đọc sách.