Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ nhằm khai thác mọi tiềm năng sáng tạo
MỘT số GIẢI PHÁP đổi mới cơ CHẾ QUẢN lý KHOA học và CÔNG NGHỆ ở nước TA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAYBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.18 KB, 25 trang ) MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp và quyết định tình chất và trình độ phát triển của một nền kinh tế. Vì thế khoảng cách về khoa học và công nghệ giữa các nước có cơ hội được rút ngắn thông qua chuyển giao công nghệ và tính liên kết giữa các nước trong quá trình hội nhập. 2. Thực trạng hoạt động quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Với xuất phát điểm là nền khoa học công nghệ thấp kém, đất nước cũn nghèo có thể nhận thấy rằng, hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: "Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho 2 từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy cũn ớt, song chưa được sử dụng tốt." Và dẫn tới các biểu hiện cụ thể sau: - Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. - Cơ chế đào tạo, quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ. - Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển. - Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường. - Chính sách quản lý khoa học và công nghệ chưa thống nhất. Chưa phân cấp trong hoạt động quản lý khoa học một cách khoa học và rõ ràng. - Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chưa có chiến lược và tầm nhìn tương ứng dẫn tới đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, gây lãng phí lớn. - Thực tế 20 năm qua, chóng ta đã và đang tiến hành sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB đi thẳng lên CNXH nhưng nước ta vẫn là nước nông nghiệp nghèo nàn với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đan xen 3 nhiều phương thức sản xuất: nông nghiệp, công nghiệp và rất Ýt yếu tố hậu công nghiệp. Các số liệu lấy từ Viện Thông tin khoa học (ISI) ở Philadelphia theo dõi sự phát triển khoa học và công nghệ ở các nước trên thế giới, cho thấy: - Xét về số lượng các công trình khoa học công bố, ta ở sau Thái Lan khoảng 20 năm. - Xét về chiều hướng phát triển, nếu tiếp diễn tình trạng này, Việt Nam sẽ càng ngày càng thua kém Thái Lan. III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. 1.Hoạt động quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm toàn diện: - Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học và công nghệ. 4 - Chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số hoạt động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích, nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển v.v...; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động khoa học và công nghệ cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ. - Chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn trong việc hoạch định chiến lược và dự báo phát triển. - Chưa coi trọng việc liên kết các lực lượng liên ngành để cùng giải quyết các vấn đề trọng yếu của khoa học và công nghệ. - Các chính sách quản lý khoa học và công nghệ chưa chú trọng nghiên cứu khoa học cơ bản trong khi nghiên cứu khoa học ứng dụng còn dàn trải, phân tấn thiếu trọng tâm trọng điểm. 2. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ thiếu quan điểm khách quan: - Việc duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn bất cập, thiếu đội 5 ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ. - Chính sách phát triển khoa học và công nghệ không xuất phát từ yêu cầu thực tế đòi hỏi của nền kinh tế mà chủ yếu dựa vào định hướng ưu tiên phát triển khoa học và công nghệ theo ngành và vùng trọng điểm. - Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ. - Chưa tách biệt giữa cơ quan quản lý khoa học và công nghệ với cơ quan thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ. - Trong việc tuyển dụng, đánh giá cán bộ làm công tác khoa học và công nghệ chưa thực sự khách quan. - Các chính sách về khoa học và công nghệ được đề ra và thực hiện Ýt có quá trình phản biện khách quan. 3. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ hiện nay thiếu quan điểm phát triển: 6 - Chính sách quản lý về khoa học và công nghệ chưa theo kịp trình độ phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ nên những phát sinh gây lúng túng cho các cơ quan quan lý. - Việc chuyển giao và tiếp nhận khoa học và công nghệ thường xuất phát từ yêu cầu phát triển trước mắt mà chưa theo xu hướng phát triển của khoa học và công nghệ dẫn tới việc tiếp nhận khoa học và công nghệ đã lạc hậu từ bên ngoài. - Chưa gắn phát triển khoa học và công nghệ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Chưa lấy hiệu quả kinh tế, xã hội để đánh giá chất lượng quản lý khoa học và công nghệ. - Việc quản lý khoa học và công nghệ chưa tuân theo xu hướng vận động của các quy luật khách quan. IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm toàn diện, khách quan: a. Xây dựng cơ chế đào tạo đội ngũ quản lý khoa học công nghệ tài năng, trong sạch + Do sự hình thành nền kinh tế tri thức nên thế giới đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ sự ganh đua gay gắt về nhân lực, trí tuệ giữa các quốc gia. Để phát triển đất 7 nước, chúng ta không thể nằm ngoài xu thế chung đó, do vậy vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài trí tuệ một cách hiệu quả nhất phải là vấn đề được sự quan tâm đầu tiên. Để làm được điều này chúng ta cần đầu tư thêm cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ cho các trường đào tạo để nâng cao trình độ và tiếp cận công nghệ mới cho các học viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút nhân tài vào các ngành khoa học công nghệ b. Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu: Cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, của các ngành, địa phương ở mỗi thời kỳ. + Phân công, phân cấp rõ ràng trong xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ Chính phủ quyết định các định hướng phát triển khoa học và công nghệ trọng điểm làm cơ sở xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầm quan trọng quốc gia, mang tính liên ngành và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia. Thủ tướng Chính phủ quyết định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, các nhiệm vụ khoa học - công nghệ phục vụ trực tiếp cho sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp 8 với các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ quan liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ này, lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội. + Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước Xác định rừ cỏc nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên ở các cấp. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp tổ chức việc trao đổi giữa các viện, trường, doanh nghiệp và cơ quan hoạch định chính sách để xác định các nhiệm vụ ưu tiên. Đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ mang tính ứng dụng, xuất phát từ nhu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các sản phẩm, thực hiện cơ chế liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với cơ sở áp dụng kết quả nghiên cứu trong toàn bộ quá trình từ xác định nhiệm vụ, tổ chức thực hiện, đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. + Đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ các cấp có trách nhiệm xây dựng và bảo đảm thực hiện cơ chế đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ áp dụng vào thực tiễn. Tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có trách nhiệm thực hiện các quy định về lưu giữ, bảo mật, phổ biến và sử 9 dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có trách nhiệm đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước ban hành các chính sách khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công nghệ. c.Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin khoa học một cách hệ thống, hiệu quả nhằm liên kết được lực lượng liên ngành để giải quyết các vần đề khoa học và công nghệ trọng yếu. + Hiện nay, thông tin khoa học và công nghệ của các ngành tuy nhiều nhưng rất tản mạn không đi vào những vấn đề cụ thể cần giải quyết mà chỉ nói chung chung. Trong tình trạng vẫn còn cơ chế độc quyền thì các tiến bộ KHCN mang tính hệ thống liên ngành rất khó được thâm nhập vào các ngành sản xuất, đặc biệt là các ngành được đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước. Các nhà khoa học ngoài ngành rất kho tiếp cận nếu không có cơ chế trao đổi thông tin phù hợp. Thực tế các tiến bộ KHCN, các phát minh muốn được ghi nhận là có đóng góp cho KTXH của đất nước đang đứng trước việc phải tự đi tìm nơi ứng dụng trong một cơ chế lẫn lộn giữa thị trường và hành chính quan liêu. d. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ 10 Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; xây dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước đạt trình độ tiên tiến trong khu vực thuộc các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010; tăng cường mối liên kết giữa nghiên cứu - đào tạo - sản xuất. + Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách, nghiên cứu các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và một số lĩnh vực khác do Nhà nước quy định Tự chủ về hoạt động khoa học và công nghệ: các tổ chức khoa học và công nghệ phải có trách nhiệm thực hiện tốt các nhiệm vụ Nhà nước giao; đồng thời tự chủ tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ khác theo quy định của pháp luật (liên kết, hợp tác, ký hợp đồng nghiên cứu và dịch vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ v.v...). Tự chủ về tài chính: Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao theo phương thức khoán chi quỹ lương, hoạt động bộ máy và kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Các tổ chức này được tự chủ trong việc sử dụng các nguồn thu khác từ hợp đồng khoa học và công nghệ với các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. 11 Tự chủ về quản lý nhân sự: thực hiện phân cấp và trao quyền tự chủ nhân sự cho tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước trên cơ sở thực hiện chế độ viên chức và hợp đồng lao động đối với cán bộ khoa học và công nghệ. Cơ chế tự chủ về quản lý nhân sự được quy định cụ thể trong mục 4 "Đổi mới quản lý nhân lực khoa học và công nghệ" dưới đây. Tự chủ về quan hệ hợp tác quốc tế: phân cấp mạnh hơn nữa cho các tổ chức khoa học và công nghệ trong việc cử cán bộ khoa học và công nghệ ra nước ngoài, thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn khoa học và công nghệ và đảm nhiệm chức vụ quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực do Nhà nước quy định. Nhà nước giao cho người đứng đầu các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ chức. + Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ có sản phẩm gắn với thị trường sang hoạt động theo một trong các hình thức sau: doanh nghiệp khoa học và công nghệ; doanh nghiệp; tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí. + Đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ 12 Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức khoa học và công nghệ, tập thể và cá nhân nhà khoa học thành lập, liên doanh với doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao thông qua các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, đầu tư hạ tầng cơ sở. + Thực hiện đánh giá định kỳ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước Nhà nước quy định chế độ tự đánh giá và bên ngoài đánh giá định kỳ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước theo các tiêu chuẩn phù hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đầu tư. Nghiên cứu hình thành loại hình tổ chức đánh giá khoa học và công nghệ độc lập có chức năng nghiên cứu phương pháp và tổ chức thực hiện việc đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ, đánh giá các tổ chức khoa học và công nghệ, phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ và bảo đảm tính khách quan trong việc đánh giá. + Phát huy chức năng và nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của các trường đại học, các viện nghiên cứu. Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ các trường đại học công nghệ thực hiện nhiệm vụ ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp 13 khoa học và công nghệ để sớm hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. 2. Nhóm giải pháp dựa trên quan điểm phát triển: a. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm: tăng nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho khoa học và công nghệ; tạo động lực cho tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. + Đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế và chính sách tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ quy định trong Nghị định số 119/1999/NĐ-CP của Chính phủ. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để thực hiện nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ đổi mới công nghệ và sản phẩm; doanh nghiệp được khấu hao nhanh đối với tài sản, thiết bị, máy móc; được vay vốn với lãi xuất ưu đãi tại Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tiến hành hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học 14 và công nghệ trọng điểm quốc gia, như: các tổ chức nghiên cứu và phát triển trọng điểm, các phòng thí nghiệm trọng điểm, các khu công nghệ cao. + Đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực công ích do Nhà nước quy định. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp tăng đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ. + Hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn tài chính tạo động lực cho hoạt động khoa học và công nghệ Áp dụng cơ chế khoán đối với đề tài, dự án khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực khoa học và công nghệ trên cơ sở thẩm định kỹ về nội dung, sản phẩm nghiên cứu và dự toán kinh phí thực hiện. Việc thanh, quyết toán kinh phí thực hiện đề tài, dự án khoa học và công nghệ phải căn cứ vào kết quả đánh giá chất lượng sản phẩm nghiên cứu là chủ yếu; bãi bỏ các thủ tục thanh, quyết toán không còn phù hợp trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. b. Thiết lập cơ chế nhanh chóng xõy dựng và thu hút lực lượng nhõn tài phục vụ sự phát triển khoa học và công nghệ. 15 Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ; tạo động lực vật chất và tinh thần, thực hiện chế độ thù lao, đãi ngộ theo mức độ cống hiến và các chính sách khuyến khích khác đối với cán bộ khoa học và công nghệ. + Tăng quyền tự chủ về quản lý nhân lực của các tổ chức khoa học và công nghệ Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức khoa học và công nghệ trong quản lý nhân lực khoa học và công nghệ: quyền tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thôi việc, xếp lương, đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức. Thực hiện cơ chế giám sát việc thực thi quyền và trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức khoa học và công nghệ. + Xây dựng cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ khoa học và công nghệ Ban hành chính sách trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ tài năng; sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ giỏi; khuyến khích và thu hút người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia phát triển khoa học và công nghệ của đất nước. áp dụng mức thu nhập đặc biệt đối với cán bộ chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ, năng lực chuyên môn ngang bằng chuyên gia nước ngoài, cùng vị trí công tác trong các dự 16 án hợp tác, được hưởng mức thu nhập tương đương với mức thu nhập bình quân do các tổ chức quốc tế, nước ngoài trả cho người Việt Nam. + Tăng cường đào tạo và đào tạo lại nhân lực khoa học và công nghệ Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích mở các trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế hoặc khu vực tại Việt Nam. Thu hỳt các viện nghiên cứu, trường đại học có uy tín của nước ngoài liên kết hoặc mở phân viện, phân hiệu hoặc tổ chức các chương trình đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Khuyến khớch các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. + Thu hút chuyên gia nước ngoài phục vụ phát triển khoa học và công nghệ Ban hành chính sách thu hút chuyên gia giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tới Việt Nam tham gia công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, giữ các chức vụ quản lý nghiên cứu khoa học và công nghệ. c. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ + Gắn kết đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội với thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống 17 Xây dựng chương trình liên kết giữa khoa học và công nghệ với đào tạo và sản xuất, kinh doanh để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện việc lấy ý kiến phản biện của các nhà khoa học đối với chủ trương, chính sách, các dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng cơ chế lồng ghộp cỏc nhiệm vụ khoa học và công nghệ với các dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. + Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hoá của các sản phẩm khoa học và công nghệ Dành tỷ lệ thích đáng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hoá. Xây dựng cơ chế đánh giá sau nghiệm thu và cơ chế hỗ trợ kinh phí để hoàn thiện và thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Hình thành các tổ chức tư vấn, giám định về chất lượng và giá cả của công nghệ trước khi chuyển giao hoặc bán cho sản xuất công nghiệp. + Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ Phát triển các tổ chức môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, các tổ chức cung cấp thông tin thị trường công nghệ; hình thành các tổ chức xúc tiến thị trường công nghệ; tổ chức các chợ công nghệ - thiết bị. 18 Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh các dịch vụ môi giới về thị trường công nghệ. + Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Quy định rõ cơ chế khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước theo hướng trao quyền sử dụng cho tổ chức thực hiện nghiên cứu trong một thời gian hợp lý để khai thác, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Quy định rõ về thời hạn sử dụng, nghĩa vụ và lợi ích của tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng, đặc biệt khi kết quả nghiên cứu có giá trị kinh tế, xã hội lớn. Sau thời hạn quy định, nếu kết quả nghiên cứu không được áp dụng thực tiễn hoặc thương mại hoá, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền sử dụng dưới dạng hàng hoá, dịch vụ công. d. Xây dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thu hút mọi hình thức lực lượng khoa học và công nghệ trong nước cho việc đổi mới khoa học và công nghệ như một tiêu chuẩn để đỏnh giá chất lượng doanh nghiệp. + Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang đi tìm hướng phát triển cho doanh nghiệp của mình thông qua triển khai việc nghiên cứu khoa học và công nghệ hoặc đổi mới khoa học và công nghệ bằng việc mua các bản quyền khoa học và công nghệ. Trong khi có nhiều công trình công trình khoa học trong nước sau khi nghiên cứu xong trong phòng thí nghiệm thiếu vốn để triển khai ứng 19 dụng. Điều nay đã gây ra lãng phí rất lớn. Do đó nếu có cơ chế ứng dụng thử tại doanh nghiệp với sự hỗ trợ về tài chính không chỉ từ NSNN mà còn có thể cả doanh nhiệp nếu như họ nhận được ưu đãi từ kết quả nghiêm cứu và ứng dụng thì một phần nào sẽ thoát ra được tình trạng trì trệ về KHCN như hiện nay. e. Xây dựng cơ chế thu hút và liên kết lực lượng khoa học và công nghệ đã có sẵn ở nước ta thông qua các doanh nghiệp cã vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và lực lượng khoa học và công nghệ là Việt Kiều. + Trong thị trường phân công lao động quốc tế nh hiện nay, các nước chậm phát triển nh nước ta vẫn đang nắm ưu thế về nhân công lao động rẻ, đất đai và các nguồn lực từ thiên nhiên sẵn có. Hiện nay dong chảy ngày càng tăng nguồn vốn FDI, sẽ là dòng chảy các công nghệ cao vào nước ta. Các nước đầu tư vào nước ta họ còn tận dụng lực lượng lao động có tay nghề cao đã được đào tạo cơ bản chúng ta có thể kết hợp với họ để nội địa hoá trí thức. Ngoài ra chóng ta đang có một lực lượng lớn các nhà trí trức là người Việt đang sinh sống và làm việc tại các nước phát triển trên thế giới. Nếu chúng ta có thể thiết lập một cơ chế đãi ngộ linh hoạt và phù hợp thì đây là nguồn tri thức quý báu cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đã đến lúc cần và rất cần phải cởi trói cho các cơ chế đang là rào cản do chính con người đặt ra để giải phóng tiềm năng trí tuệ trong đó quan trọng nhất là lực lượng khoa học công nghệ. Nhưng đó là vấn đề rất khó và vô cùng phức tạp vì vấn đề Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời kỳ hội nhập 20 kinh tế Quốc tế là một vấn đề rất rộng, cần nhiều ý kiến đóng góp để đưa ra một chương trình hành động manh tính thực thi, đáp ứng được nhu cầu cấp bách về phát triển KTXH ở nước ta. Do đó việc xây dựng và vận hành cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ nhất thiết phải dựa trên thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin chúng ta mới hi vọng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong tiến trình rút ngắn khoảng cách về khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay./. 21 22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học: Nhà xuất bản chớnh trị 2006 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. Nxb Chớnh trị quốc gia Hà Nội 3. http://www.cpv.org.vn (Báo điện tử Đảng cộng sản Việt nam) 23 Học viện ngân hàng ---------- TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC (Đối tượng đào tạo cao học) 24 Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY HỌ TÊN: HÀ ANH VÒ LÍP: CAO HỌC 10C Hà Nội, tháng 6 năm 2009 25 |