Đời tưởng nào sau đây là động lực của các cuộc cách mạng xã hội

Động lực cách mạng và điều kiện làm cho động lực trở thành sức mạnh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 16/11/2017 03:20
Mặc định Cỡ chữ

1. Quan niệm về động lực trong tiến trình từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa

1.1. Động lực trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng xã hội tức là giai cấp tiến bộ lãnh đạo nhân dân đánh đổ giai cấp phản tiến bộ, lật đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng xã hội tức là động lực cách mạng. Mục đích của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta nhằm đánh đuổi đế quốc xâm lược, lật đổ chế độ thực dân phong kiến. Động lực của cuộc cách mạng này gồm có các giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc. Vì bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột thậm tệ nên các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản nhiệt liệt mong muốn đánh đổ chúng. Tư sản dân tộc cũng bị đế quốc và phong kiến áp bức ngăn trở, do đó họ cũng có thể đứng về phe cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, bốn giai cấp ấy đoàn kết thành mặt trận thống nhất đánh đổ đế quốc và phong kiến, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Theo tính chất cách mạng của mỗi nước mà quyết định động lực cách mạng bao gồm những giai cấp nào. Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản. Trong một thời kỳ và một trình độ nhất định, giai cấp tư sản dân tộc cũng là động lực cách mạng"[1].

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại "Phủ Chủ tịch" Việt Bắc năm 1952

1.2. Động lực cách mạng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Đại đoàn kết dân tộc với nòng cốt liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Động lực chủ yếu của cách mạng XHCN là các giai cấp và tầng lớp mà lợi ích của họ gắn bó với cách mạng XHCN. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng ghen chỉ rõ: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc là mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”[2]. Cách mạng XHCN với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức bóc lột, thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. Vì vậy, động lực của cách mạng XHCN là tổng hợp sức mạnh của các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng xã hội, trong đó động lực chủ yếu là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớp trong cách mạng XHCN có sự khác nhau.

Công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cách mạng XHCN. Công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp đã phát triển cả về lượng và chất, là lực lượng lao động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã hội hiện đại, là lực lượng xã hội đi đầu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song, C. Mác chỉ ra rằng: cách mạng vô sản phải là một bài đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân, mà nếu không có được bài đồng ca này thì trong tất cả các quốc gia nông dân, bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành một bài ai điếu.

Nông dân là lực lượng đông đảo, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được chính quyền và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi lôi kéo được giai cấp nông dân theo mình. Xét về kinh tế, nông dân là lực lượng quan trọng trong xã hội. Xét về chính trị - xã hội, nông dân là lực lượng cơ bản tham gia bảo vệ chính quyền, nhà nước XHCN. Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, là một động lực to lớn trong cách mạng XHCN, nhưng không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng XHCN.

Trí thức là những người có vị trí rất quan trọng trong cách mạng XHCN. V.I. Lênin đã khẳng định, không có tri thức không thể có chủ nghĩa xã hội. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chính sách đó. Trong thời đại khoa học công nghệ, giá trị lao động chất xám ngày càng cao, thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng to lớn hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”[3]. Đội ngũ trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”[4].

Liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó chính là động lực con người trong cách mạng XHCN được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận ở cả góc độ toàn thể cộng đồng quốc gia dân tộc và ở góc độ mỗi cá nhân con người đều cần phải được phát huy thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực trong cách mạng XHCN, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội"[5].

- Sức mạnh con người với tư cách cá nhân người lao động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: quy luật cơ bản của kinh tế XHCN là thoả mãn những nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động. Vì vậy, Người luôn quan tâm việc giải quyết hài hòa nhu cầu, lợi ích của cá nhân người lao động với nhu cầu, lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc trong hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Người chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng"[6].

Người khẳng định: không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN. Trong chế độ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng, coi trọng động lực cá nhân, tìm tòi cơ chế, chính sách để kết hợp hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, như khoán, thưởng, phạt trong kinh tế. Người khẳng định: "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"[7].

- Động lực chính trị tinh thần.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý phát huy quyền và ý thức làm chủ của người lao động. Người chỉ rõ: ngày nay chính chúng ta là người chủ. Chúng ta làm chủ cuộc sống mới do chúng ta xây dựng nên. Chúng ta làm chủ tương lai của mình và của con cháu mình. Cho nên, chúng ta sẵn sàng đem hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của giai cấp, của Tổ quốc. Người lao động có quyền làm chủ trên tất cả các mặt sở hữu, quá trình sản xuất, quá trình phân phối. Người yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. "Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai"[8].

Thực hiện công bằng xã hội. Luôn coi công bằng là một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội, vì thế, Người nhắc nhở: trong công tác phân phối, lưu thông nói riêng và trong mọi công việc luôn nhớ: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[9]. Công bằng nhưng không phải là cào bằng một cách bình quân, giỏi kém đều như nhau, làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội.

- Sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng các lĩnh vực văn hóa, chính trị, giáo dục, đạo đức, lối sống, pháp luật, văn học nghệ thuật, với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của phát triển. Chính nhờ văn hóa với hạt nhân là con người có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, lối sống, phong cách lành mạnh mà chúng ta đã chiến thắng các đế quốc, đồng thời phát triển các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh.

- Sức mạnh của thời đại.

Tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Đặc biệt, vào những năm 60 của thế kỷ XX, khi hệ thống XHCN thế giới ở vào thời kỳ hùng mạnh, đang quyết định xu hướng phát triển của xã hội loài người. Đoàn kết với các nước XHCN, chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ cả về tinh thần, kinh nghiệm và vật chất để trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trở thành hậu phương vững chắc quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành hòa bình, độc lập, thống nhất nước nhà.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành một nguyên tắc chiến lược cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng nguyên tắc đó trong xác định ngoại động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta, đó chính là việc phải biết tranh thủ sự hợp tác song phương, đa phương với tất cả các nước và các tổ chức trên thế giới với tinh thần Việt Nam muốn "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh"[10].

Bên cạnh đó, cần tranh thủ những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.

2. Điều kiện bảo đảm cho động lực trở thành sức mạnh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

2.1 Xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng

Xác định những điều kiện phát huy sức mạnh các động lực đưa cách mạng đến thắng lợi, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải có Đảng. "Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”11]. Tức là phải xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức chính trị, tư tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[12].

2.2 Xây dựng và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước

Cùng với xây dựng Đảng,Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người khẳng định: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội”[13]. Xây dựng nhà nước, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì điều quan trọng hàng đầu là nhà nước đó phải là nhà nước của nhân dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Người khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"[14]. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công-nông-trí do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, phải xây dựng được bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực.

2.3 Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Theo Người, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân tộc, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Người khẳng định: "Toàn dân ta phải đoàn kết rộng rãi hơn nữa trong Mặt trận Tổ quốc. Cán bộ phải đoàn kết nhất trí, giữ vững đạo đức cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước. Các tầng lớp nhân dân ta - công nhân, nông dân, lao động trí óc, các nhà công thương, đồng bào thiểu số - ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà; giúp chính quyền giữ gìn trật tự, an ninh, tăng cường đoàn kết, giúp sức và giám đốc cán bộ đẩy mạnh mọi công tác.

Lực lượng của nhân dân ta mạnh mẽ.

Sức sống của chế độ ta dồi dào.

Tính chất của chính quyền ta tốt đẹp

Toàn dân ta từ Nam đến Bắc đoàn kết chặt chẽ, tin tưởng một lòng đấu tranh bền bỉ; lại có các nước anh em khảng khái giúp đỡ, các nước bầu bạn ủng hộ, đồng tình. Chúng ta nhất định vượt qua được mọi khó khăn. Nước nhà ta nhất định sẽ thống nhất. Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh"[15].

PGS.TS. Nguyễn Thế Thắng -Học viện Chính trị Hồ Chí Minh khu vực I

-----------------------

Ghi chú:

[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2011, tr. 245.

[2] C.Mác và Ăngghen, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr. 611.

[3], [7],[15] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr. 376, tr.537, tr. 424-425.

[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 14, Sđd, tr. 97-98.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 86.

[6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Sđd, tr. 286.

[8] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, Sđd, tr. 67.

[9],[12] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 15, Sđd, tr. 224, tr.612.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 236.

[11] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Sđd, tr. 289.

[13] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Sđd, tr. 374.

[14] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Sđd, tr. 232.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Mục tiêu, động lực và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Quảng cáo

a] Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Giải phóng xã hội, giải phóng con người là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cho nên có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà phải từng bước hiện thực hóa qua thực tiễn sự nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người với người và tiến tới thực hiện mục tiêu cao cả nhất: "biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Mục tiêu cao cả nhất đó phải được hiện thực hóa qua từng chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lao động đầy nhiệt huyết và sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, bằng công tác tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân phải đoàn kết với những người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột: "phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc"1. Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động và công cuộc tổ chức một xã hội mới về mọi mặt, thực hiện xóa bỏ tình trạng người bóc lột người để không còn tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác. Đến giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản, khi đó không còn giai cấp, không còn nhà nước, giai cấp vô sản tự xóa bỏ mình với tư cách là giai cấp thống trị.

b] Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

"Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số".

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho họ, do vậy thu hút được sự tham gia của quần chúng nhân dân lao động trong suốt quá trình cách mạng.

Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp, do vậy ngày càng tăng lên về số lượng, nâng cao về chất trong xã hội hiện đại. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã hội hiện đại, là lực luợng xã hội đi đầu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy có thể khăng định: giai cấp công nhân là lực lượng hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp này trở thành một động lực to lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong một xã hội khi nông dân còn là lực lượng đông đảo thì trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình.

Khi nói về vai trò của giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp công nhân. C.Mác đã chỉ ra, nếu giai cấp công nhân không thực hiện được bài đồng ca cách mạng với giai cấp nông dân thì bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành bài ai điếu.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng vậy, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, khi đại đa số giai cấp nông dân đi theo giai cấp công nhân. Đứng về phương diện kinh tế, giai cấp nông dân là một lực lượng lao động quan trọng trong xã hội. Đứng về phương diện chính trị - xã hội, giai cấp nông dân là một lực lượng cơ bản tham gia bảo vệ chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, "nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân". Trên cơ sở khối liên minh công - nông vững chắc mới có thể tạo ra được sức mạnh của khối đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ trong các tầng lớp nhân dân lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

c] Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

- Trên lĩnh vực chính trị: Nội dung trước tiên của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động; đưa những người lao động từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị làm chủ xã hội. Bước tiếp theo là tiếp tục phát triển sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực chất của quá trình đó là ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước. V.I.Lênin đã luôn luôn quan tâm tới việc thu hút quần chúng nhân dân lao động Nga tham gia vào những công việc của Chính quyền Xôviết ở Nga lúc đó, V.I.Lênin cho rằng: "Các Xôviết công nhân và nông dân là một kiểu mới về nhà nước, một kiểu mới và cao nhất về dân chủ... lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động...".

Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người dân, đặc biệt là văn hóa chính trị. Bên cạnh đó, đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa còn phải quan tâm tới việc xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ chế, có những biện pháp để nhân dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước.

- Trên lĩnh vực kinh tế: Những cuộc cách mạng trước đây, về thực chất chỉ là cuộc cách mạng chính trị, bởi vì, về căn bản, nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cách mạng xã hội chủ nghĩa về thực chất là có tính chất kinh tế. Việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết là phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, "Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước... để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất".

Cùng với cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công việc là thước đo đánh giá hiệu quả của mỗi người đóng góp cho xã hội.

- Trên lĩnh vực tư tương - văn hóa: Trong những xã hội áp bức bóc lột trước đây, giai cấp thống trị nắm quyền lực về kinh tế, cũng đồng thời nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cùng quần chúng nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, do vậy, họ cũng là những người sáng tạo ra những giá trị tinh thần.

Trong điều kiện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội.

Trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao dộng, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân dạo, có hiểu biết, có khả năng giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ gi ữa cá nhân, gia đình và xã hội.

Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, có quan hệ gắn kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xà hội cũ thành xã hội mới, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng mà xây dựng là chủ yếu.

d] Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Sống trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động trên thế giới, giai cấp công nhân đã trưởng thành ở nhiều nước, V.I.Lênin đã khẳng định, những nước lạc hậu về kinh tế, chủ nghĩa tư bản còn ở trình độ kém, hoặc trung bình, giai cấp công nhân phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, sau đó đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, không dừng ở chế độ tư bản chủ nghĩa. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin còn cho rằng, những nước thuộc địa, sau khi được giải phóng do giai cấp công nhân lãnh đạo với sự giúp đỡ của những nước tiên tiến có thể quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của những nước này sẽ gặp nhiều khó khăn và là một quá trình lâu dài, phức tạp.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
  • Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Hãy phân tích nguyên nhân khách quan của nó?

    - Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa + Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền

  • Tại sao đối với những nước mà nông dân còn là một lực lượng đông đảo thì trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một tất yếu khách quan và có thể thực hiện được? Có những nội dung và nguyên

    - Thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một tất yếu và có thể thực hiện được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước mà nông dân còn là một lực lượng đông đảo

  • Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên cơ sở nào? Theo dự báo đó, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển qua những giai doạn cơ bản nào

    - Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên hai cơ sở chính

  • Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa?

    Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây: - Thứ nhất, về cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội. Cơ sở vật chất của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ như thế nào? Từ việc hiểu biết mối quan hệ đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào? Cho ví dụ minh hoạ
  • Nguyên lý về sự phát triển
  • Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Khơi dậy và phát huy mạnh mẽ động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam

[ĐCSVN] - Việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược chúng ta đã đặt ra theo tinh thần Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mà còn đảm bảo sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn đảm bảo sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [Ảnh minh họa]

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới”[1]. Sức mạnh của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền của đất nước được giữ vững. Quan hệ đối ngoại rộng mở và đang đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, bêncạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn chậm, đời sống nhân dân ở nhiều nơi vẫn còn khó khăn; mô hình phát triển chưa đổi mới, sáng tạo; hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; văn hoá, xã hội, môi trường chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức; quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được phát huy đầy đủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.

Vì vậy, để tạo đột phá chiến lược hướng tới dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, năm 2030 và kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước, năm 2045 đưa nước ta thành nước phát triển, có thu nhập cao, củng cố cơ đồ, tăng cường vị thế đất nước cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đòi hỏi chúng ta phải tạo ra động lực mới cho sự phát triển đất nước.

Trên cơ sở kế thừa và bổ sung quan điểm về những nhân tố tạo thành động lực của các kỳ Đại hội Đảng trước đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[2]. Với tư tưởng trên, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định trên nhiều nội dung mới.

Thứ nhất, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Yêu nước là truyền thống quý báu, là hệ giá trị nổi bật của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy là mẫu số chung, là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc. Lòng yêu nước không chỉ là tư tưởng, tình cảm mà đã trở thành triết lý, là chủ nghĩa yêu nước, là ý chí, khí phách, quyết tâm và hành động của mỗi con người Việt Nam. Trong chiến tranh, yêu nước được thể hiện qua tinh thần đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, tinh thần quật khởi, ý chí quật cường bất khuất, chống lại sự xâm lược, đô hộ, đồng hóa của ngoại bang để bảo vệ độc lập dân tộc và biên cương của Tổ quốc. Ngày nay, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách, hợp tác trong lao động, sản xuất; sáng tạo, hăng say để xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Để phát huy cao độ lòng yêu nước phải có tinh thần đoàn kết, chỉ có đoàn kết sâu, rộng chúng ta mới tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng và kiến thiết đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Mới đây, trong Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”[4].

Thứ hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước.

Khi coi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hướng vào nguồn lực nội sinh, sức mạnh dân tộc là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự tôn và tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, tâm hồn… những giá trị cốt lõi của văn hóa, con người Việt Nam. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn năng lượng to lớn, sống động thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hộilà một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”[5].

Về bản chất, văn hoá là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hoá là nói tới con người, do vậy, phát huy vai trò của văn hoá trong phát triển chính là phát huy những năng lực, bản chất của con người. Trong Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển;phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”[6]. Trong Bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội,kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”[7].

Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy sức sống, sức sáng tạo vươn tới các giá trị nhân văn, tiến bộ của con người. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là nhằm giải phóng và phát triển toàn diện con người. Vì vậy, bản chất của văn hoá thống nhất với mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới.

Mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp, con người Việt Nam hoàn toàn có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng sáng tạo những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến, tri thức hiện đại trên thế giới để đổi mới sáng tạo vào quá trình phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] có những tác động to lớn đối với đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] làm thay đổi căn bản lĩnh vực sản xuất, tư duy, văn hóa, lối sống của con người.

Trước hết, cách mạng công nghiệp thúc đẩy lực lượng sản xuất [thay đổi trình độ của người lao động, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin], tạo ra sự thay đổi căn bản về khả năng kết nối giữa con người với công nghệ; khả năng minh bạch thông tin; khả năng giải quyết những công việc phức tạp với trình độ rất cao. Đây chính là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng cho những nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] tạo ra đột phá về công nghệ trong quá trình sản xuất và tiêu dùng đã giúp tiết kiệm nguyên vật liệu và chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo ra lượng của cải vật chất khổng lồ, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngày nay, công nghệ thông tin còn tạo cơ sở cho quá trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, tạo cơ sở cho nền sản xuất toàn cầu, phục vụ cho nhân loại.

Thứ hai, cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] làm thay đổi tư duy của con người, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp góp phần hình thành lối tư duy độc lập, sáng tạo, tăng cường tính logic với những phán đoán ngày càng toàn diện hơn, khoa học hơn, qua đó thúc đẩy sự phát triển của tư duy khoa học. Điều này không chỉ hình thành và thúc đẩy khả năng làm việc hiệu quả, mà còn xác lập lối sống mới lành mạnh, tiến bộ và văn minh hơn cho con người. Sự phát triển của khoa học công nghệ đang cho phép thành lập các cộng đồng toàn cầu, vượt biên giới các quốc gia, tạo ra những giá trị chung cho nhân loại.

Thứ ba, cách mạng công nghiệp lần thứ tư [4.0] góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong thời đại hiện nay đã thúc đẩy quá trình phát triển ngày càng cao về cấu trúc, trình độ tổ chức của các thiết chế xã hội, tạo ra mạng lưới giao tiếp đa diện hơn cho con người. Mô hình quản lý của các chính phủ điện tử, quản trị thông minh thông qua công nghệ điện toán đám mây, đã góp phần thay đổi căn bản khả năng kết nối và tương tác xã hội, đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội loài người. Khoa học công nghệ cũng tạo ra sự công bằng và sự bình đẳng cho tất cả mọi người khi được hưởng sản phẩm giá rẻ, thuế thấp hơn với chất lượng dịch vụ cao hơn, giúp con người có thể cung ứng và trao đổi các dịch vụ, như tư vấn sức khoẻ, viết phần mềm, xử lý thông tin... trên phạm vi toàn cầu, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Có thể nói, cách mạngcông nghiệp đang tác động mạnh mẽ và sâu sắc đối với mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, tạo động lực cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy vậy, chúng ta cần phải ý thức rằng, khoa học và công nghệ tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố cản trở sự tiến bộ xã hội. Do vậy, cùng với việc tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ, thì việc đổi mới năng lực sáng tạo của con người là yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược chúng ta đã đặt ra theo tinh thần Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mà còn đảm bảo sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2021, tập 1, tr.34.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.116

[4]Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

[5] Bài viết đã dẫn

[6] Bài viết đã dẫn

[7] Bài viết đã dẫn

PGS, TS Đặng Quang Định - Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH

[ĐCSVN] - Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, ngày [16/5/2021], đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định và làm rõ, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...

Hội nghị tiếp xúc giữa cử tri với người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XV thuộc Đơn vị
bầu cử số 1 của TP Hà Nội. [Ảnh: Đăng Khoa]

Phát triển lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu to lớn của Đảng ta qua 35 năm đổi mới, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Tổng kết về vấn đề này, khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”[1]. Đây là một trong những luận điểm khái quát cốt lõi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Thứ nhất: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới là trách nhiệm của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[2], trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ xã hội xã hội “do nhân dân làm chủ”[3], ở đó, quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước “đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”[4].

Với bản chất và đặc điểm nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chế độ dân chủ thực sự, không phải là dân chủ hình thức, cực đoan, vô chính phủ. Nó đối lập với chuyên quyền độc đoán, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu. Nói một cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn. Khẳng định điều này, đồng chí Tổng Bí thư đã viết: “Chúng ta cần một xã hội, mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”[5].

Trong những năm thực hiện đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu sắc rằng để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.., nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”[6], không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con người, tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người. Đây cũng là căn cứ để Đảng ta xác định, dân chủ là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trên cơ sở những chỉ báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ “dân là chủ” đến “dân làm chủ” là một bước phát triển về chất, Đảng ta không chỉ xác định vị thế, tư cách chủ thể xã hội là của nhân dân, “dân là gốc”, mà quan trọng hơn, bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phải làm cho nhân dân được hưởng quyền làm chủ và có năng lực, phương pháp, bản lĩnh làm chủ trên thực tế... khi đó, dân chủ trở thành động lực để xây dựng, phát triển đất nước. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “…thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân hưởng thụ””[7].

Thứ hai: “Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua 35 năm đổi mới, thể hiện rất rõ và hết sức sinh động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân chủ, cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Quan niệm về dân chủ ngày càng được mở rộng. Dân chủ được xem xét trên nhiều khía cạnh: là chế độ chính trị; là giá trị; là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ riêng đối với mỗi cá nhân; dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ phải được thể hiện trong tất cả các cấp độ: Từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến từng cơ sở; đặc biệt quan trọng là dân chủ ở cơ sở.

Bên cạnh đó, Đảng ta chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”[8], nguyên nhân của hạn chế này là do hoạt động của hệ thống chính trị chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả, các điều kiện để người dân làm chủ chưa đầy đủ, sự thiếu gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự thiếu ý thức dân chủ, lợi dụng dân chủ của một bộ phận nhân dân… Do vậy, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.

Để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu đòi hỏi phải có “…một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”[9]. Phải phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy: “Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[10]. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Như vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn cần được tăng cường nắm vững và giải quyết hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích” như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư nêu trong bài viết.

Là ước vọng hàng ngàn năm của tuyệt đại đa số nhân dân lao động, tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nói chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng là thực tiễn chưa có tiền lệ, khác với nền dân chủ tư sản đã có lịch sử hàng nhiều trăm năm và bản thân nó cũng đã và đang tiếp tục phải cải tiến, điều chỉnh. Do vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo ý kiến của đồng chí Tổng Bí Thư, cần phải nhận thức là quá trình lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chỉ có như thế mới khắc phục các biểu hiện chủ quan duy ý chí nóng vội, cũng như tâm lý chán nản, dễ chấp nhận khiến cho quá trình dân chủ hóa trì trệ, bất cập với yêu cầu đổi mới. Chúng ta vừa tăng cường thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nhưng cũng cần tránh các biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ kiểu phương Tây, lợi dụng dân chủ - nhân quyền để gây mất ổn định, thực hiện cách mạng “sắc màu” hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, không được phiến diện trong nhận thức về mối quan hệ giữa “đa đảng”, “đa nguyên” với mức độ cao thấp của dân chủ; khắc phục sự mơ hồ về thực chất và hình thức biểu hiện của nền dân chủ tư sản như đồng chí Tổng Bí thư đã nêu: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do”… không hề bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân hay vì nhân dân”[11]. Cũng như vậy, nếu ai đang đồng nhất giữa dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa đầy đủ sẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Song song với những bất cập trên, còn cần phải khắc phục tính biệt lập trong xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy khác biệt về bản chất chính trị với dân chủ tư sản, nhưng điều đó không ngăn trở việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các thành quả của nhân loại trong xây dựng nền dân chủ của Việt Nam.

Xây dựng chế độ dân chủ phải được coi là sự nghiệp cách mạng lâu dài như khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư, nhưng được coi là nhiệm vụ trọng yếu, bởi dân chủ vừa thể hiện bản chất của chế độ ta vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí và tin tưởng rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những “giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang định, kiên trì theo đuổi”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí Thư./.

----------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1], [4], [5], [9], [10], [11]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 16 tháng 5 năm 2021

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG – ST, tr.232

[3], [6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, tr.70

[7], [8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, tr.27, 89

PGS.TS Đỗ Thị Thạch

Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Video liên quan

Chủ Đề