Lưu ý khi giáo viên chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của học sinh, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì, đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp truyền thụ một chiều sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; Vì vậy, ngay từ khâu soạn giáo án phải tăng cường hướng đến hoạt động của học sinh trong bước chuyển giao nhiệm vụ học tập để khi dạy trên lớp giáo viên luôn luôn định hướng chắc chắn rằng học sinh là nhân vật trung tâm. Nhờ có phong trào đổi mới phương pháp dạy học của ngành, chất lượng giáo dục nhìn chung đã được nâng lên. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ học sinh sau khi ra trường không áp dụng được kiến thức vào cuộc sống lao động sản xuất và giao tiếp. Lý do là việc nắm bắt kiến thức chưa sâu, chưa có nền tảng vững chắc, không xuất phát từ nền tảng của tư duy. Việc dạy học sinh có thói quen chủ động, tích cực, tự giác cao trong hoạt động học tập vừa là yêu cầu của ngành vừa là yêu cầu của thời đại. Trong vấn đề này, việc soạn giảng của giáo viên trong từng tiết dạy có ảnh hưởng rất lớn. Muốn dạy hướng đến phát triển năng lực của học sinh thì trước hết soạn giáo án phải hướng đến học sinh. Tôi xin đưa ra đề xuất Soạn giáo án hướng đến hoạt động của học sinh trong bước chuyển giao nhiệm vụ học tập, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Nhiệm vụ và giải pháp thứ 2 trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Theo đó học sinh và hoạt động học tập của học sinh tiếp tục được coi là yếu tố trọng tâm trong quá trình dạy học. Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học của ngành Giáo dục và Đào tạo thì việc chuyển giao nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng của học sinh được thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ. Việc giao nhiệm vụ khoa học, hấp dẫn, linh hoạt, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh, đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ là yếu tố quan trọng để học sinh nắm bắt kiến thức một cách sâu sắc. II. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY TRONG CÁC TRƯỜNG THCS HIỆN NAY Một bộ phận không nhỏ giáo viên trong quá trình soạn giáo án quá thiên về nội dung kiến thức mà coi nhẹ, ít quan tâm đến quá trình nhận thức của học sinh, không làm rõ được các hoạt động của học sinh trong quá trình học tập, có lúc lỗi chỉ là cách trình bày giáo án ở nội dung hoạt động của học sinh. Cách soạn giáo án này dẫn đến quá trình giảng trên lớp không tường minh, giảng theo kinh nghiệm của bản thân, đôi khi tùy tiện, làm cho học sinh ghi nhớ máy móc, không hiểu được bản chất của kiến thức. Một số không nhỏ giáo viên và cán bộ quản lý trường học cũng đã chấp nhận cách soạn này, vì thế mà cách soạn này đang phổ biến hiện nay. Một số ví dụ (trích đoạn giáo án đang sử dụng phổ biến) Ví dụ 1: (Bài soạn minh họa trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên tin học lớp 7 trung học cơ sở của Bộ giáo dục và đào tạo, in năm 2007) Bài 3, lớp 7. Thực hiện tính toán trên trang tính
Giáo viên giới thiệu công thức toán học như SGK, trong đó lưu ý các kí hiệu *,/,^,%. Các kí hiệu sau đây được dùng để kí hiệu các phép toán trong công thức:
Công thức dùng ở bảng tính phải có dấu = phía trước. Giáo viên giới thiệu hình vẽ như sau: 2. Nhập công thức Nếu ô chọn có công thức em sẽ thấy công thức xuất hiện ở đâu? Nếu em chọn một ô không có công thức thì trên thanh công thức xuất hiện những gì? ( Giáo viên có thể dùng các hình sau để minh họa cho câu hỏi). Giáo viên hướng dẫn cách nhập công thức: Muốn nhập công thức ta phải thực hiện: - Nháy vào ô cần nhập công thức; - Gõ dấu =; - Nhập công thức; - Nhấn phím Enter. Dấu = là dấu đầu tiên em cần gõ khi nhập công thức vào một ô Ở những hình vẽ trên làm thế nào em nhận biết được một ô nào đó có công thức hay không? Nếu viết công thức không có dấu = phía trước, kết quả trên thanh công thức là gì? Nội dung cơ bản được giữ trong ô tính là công thức và được hiển thị trên thanh công thức. Còn nội dung được hiển thị trong ô tính là kết quả tính toán bằng công thức. 3. Sử dụng địa chỉ trong công thức Thế nào là địa chỉ một ô. Cho ví dụ? Ta có thể tính toán với dữ liệu có trong các ô thông qua địa chỉ các ô, khối, cột hoặc hàng. Nhìn những hình vẽ sau, em cho biết cách tính có địa chỉ và cách tính không dùng địa chỉ? a) b) Hình a sử dụng công thức không dùng địa chỉ, hình b là công thức có sử dụng địa chỉ. Khi em thay số 5 thành số 6 trong ô A1 kết quả tương ứng ở hình a, b sẽ là hình c, d như sau: c) d) Em có nhận xét gì về kết quả trên? Như vậy các phép tính mà không dùng đến địa chỉ thì mỗi lần tính toán ta phải gõ lại công thức và ngược lại nếu sử dụng công thức có địa chỉ ta khi thay đổi giá trị kết quả tự động thay đổi theo. Ví dụ 2: (Trích đoạn giáo án tin học 6 mà giáo viên đang soạn theo lối phổ biến hiện nay - Lấy một giáo án ngẫu nhiên mà tôi và nhiều giáo viên khác đang sử dụng) Bài 11, lớp 6. Tổ chức thông tin trong máy tính
Ví dụ 3: (trích đoạn giáo án tin học lớp 6 soạn theo lối phổ biến hiện nay-Lấy giáo án ngẫu nhiên của tôi và nhiều giáo viên khác hiện nay đang sử dụng) Bài 1, lớp 6. Thông tin và tin học
Sau khi dạy theo các giáo án nêu trên, tôi đã khảo sát khối 6, khối 7, thông qua bài kiểm tra. Bảng tổng hợp kết quả thu được ở tiết tin học khối 7 (ví dụ 1) như sau:
Bảng kết quả ở khối 6 (ví dụ 2):
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Giải pháp đề xuất Trong quá trình soạn giáo án cần thay đổi cách đặt câu hỏi và cách ghi nội dung hoạt động của trò: Giáo viên xác định đúng thao tác tư duy của học sinh khi tiếp thu từng đơn vị kiến thức (hoặc khi giải quyết một vấn đề đặt ra trong quá trình học tập) và tác động có mục đích vào từng thời điểm cụ thể. Nội dung hoạt động của trò không ghi các hoạt động đơn thuần của học sinh hoặc lời giải của bài toán theo trình tự thông thường mà phải ghi tương ứng các thao tác tư duy như: Phân tích, tổng hợp của học sinh với câu hỏi chuyển giao nhiệm vụ của giáo viên. Hoặc ghi đích đến của quá trình nhận thức tương ứng với câu hỏi chuyển giao nhiệm vụ. Làm như vậy sẽ tránh được tình trạng soạn giáo án không minh bạch, dẫn đến trong quá trình giảng thì phát ngôn lại ngôn ngữ trong sách giáo khoa một cách thuần túy, thiếu ngôn ngữ sư phạm sâu sắc, biểu cảm, không thể hiện được yêu cầu về chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh. Cũng các giáo án trên, tôi tiến hành soạn lại theo cách thức mới đề xuất như sau: Ví dụ 1: Bài 3 lớp 7: Thực hiện tính toán trên trang tính (SKKN chỉ đề cập đến việc chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh):
Ví dụ 2: Bài 11, lớp 6. Tổ chức thông tin trong máy tính
Ví dụ 3: Bài 1, lớp 6. Thông tin và tin học
Soạn giảng nhiều bài dạy khác bằng 2 cách trên đây, rút ra sự khác nhau giữa hai giáo án như sau:
Qua ba ví dụ trên, chúng ta thấy: Các bước chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh một cách khoa học, hấp dẫn, linh hoạt không những kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh, làm cho các em sẵn sàng tiếp nhận, nắm bắt kiến thức mà còn tạo điều kiện cho các em dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn. Nhờ xác định rõ các mục tiêu thành phần trong quá trình nhận thức của học sinh mà giáo viên lần lượt có các tác động phù hợp, minh bạch, khoa học hơn trong quá trình chuyển giao nhiệm vụ học tập cho các em. 2. Tổ chức thực hiện Đối tượng áp dụng: Học sinh đang học khối lớp 6, 7. Trình tự thực nghiệm: Tôi soạn giáo án theo hai cách nêu trên và triển khai giảng dạy trên khối lớp 6,7 trường THCS Dân Lực; Sau đó đánh giá kết quả giờ dạy thông qua kết quả học tập của học sinh. 3. Tác dụng thực tiễn thu được Kết quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. Bảng kết quả kiểm tra học sinh sau khi dạy tiết tin học cho học sinh khối 7 (ví dụ 1) bằng giáo án soạn theo cách mới:
So với kết quả dạy theo cách cũ (ví dụ1) thì: Học sinh đạt điểm giỏi tăng: 3,5% Học có điểm yếu giảm 8,4% Bảng kết quả kiểm tra sau khi dạy học sinh khối 6 bằng giáo án ở ví dụ 2:
So với kết quả dạy theo giáo án ở ví dụ 2 (soạn theo cách cũ) thì: Học sinh đạt điểm giỏi tăng: 4,2% Học sinh có điểm yếu giảm: 5,2% Từ các bảng kết quả trên cho thấy: Việc soạn giáo án hướng đến hoạt động học tập của học sinh trong bước chuyển giao nhiệm vụ sẽ làm cho quá trình dạy của giáo viên khoa học hơn, kết quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. C. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT Các cấp quản lý giáo dục có thẩm quyền xem xét, phổ biến đến các đồng chí cán bộ quản lý và giáo viên dạy môn tin học lớp 6,7 để áp dụng trong quá trình soạn, giảng và có thể mở rộng cách soạn này cho môn tin học lớp 8,9./. |