Made in vietnam nghĩa là gì
Sản phẩm không phải "made in Vietnam" nếu chỉ qua công đoạn gia công đơn giản và không đạt tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa tối thiểu 30%. Sau hơn một năm tham vấn ý kiến các bộ, ngành, Bộ Công Thương đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên quy định về tiêu chí dán mác "made in Vietnam" cho hàng sản xuất trong nước lưu thông nội địa. Theo đó, hàng hóa của Việt Nam gồm hàng thuần túy sản xuất trong nước (khoáng sản, cây trồng, vật nuôi...) và hàng hóa không có xuất xứ thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam. Trường hợp hàng có xuất xứ không thuần túy được xác định dựa trên các tiêu chí về chuyển đổi mã số hàng hóa (mã HS), hoặc hàm lượng giá trị gia tăng dựa trên các yếu tố như nguyên liệu đầu vào, chi phí sản xuất, chi phí nhân công, chi phí nhà xưởng... Ông Trần Thanh Hải – Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) lấy ví dụ, bột mỳ nhập khẩu từ nước ngoài thì không được coi là hàng hóa của Việt Nam nhưng sau khi đưa vào nhà máy, trải qua công đoạn chế biến để thành sản phẩm cuối cùng là bánh quy. Bánh quy đó trở thành một loại hàng hóa mang mã số khác, có tính chất thay đổi khác hẳn với bột mỳ nên đáp ứng tiêu chí "chuyển đổi mã số hàng hóa " và được coi là hàng hóa của Việt Nam. Với công thức tính Bộ Công Thương đưa ra, hàng có xuất xứ Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam phải có tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa tối thiểu là 30%. Tuy nhiên đây chỉ là điều kiện đủ, và điều kiện cần là hàng hóa này phải vượt qua công đoạn gia công đơn giản. Nghĩa là, một mặt hàng sẽ không được coi là "made in Vietnam" nếu có tỷ lệ nội địa hóa dưới 30% và chỉ trải qua khâu gia công đơn giản ở Việt Nam như thay đổi bao bì đóng gói, dán lên sản phẩm hoặc bao gói sản phẩm nhãn hiệu, hoặc lắp ráp đơn giản các bộ phận để tạo nên sản phẩm hoàn chỉnh...
Công nhân lắp ráp tivi tại nhà máy của Asanzo. Ảnh: Trung Sơn Ông Trần Thanh Hải cho biết, việc thiếu vắng các quy định khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm. Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng chỉ trải qua các công đoạn gia công, lắp ráp, chế biến đơn giản nhưng cũng gắn nhãn "sản xuất tại Việt Nam". Ở góc độ minh bạch thông tin và đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, việc đưa ra tiêu chí thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam, theo bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (VCCI), là cần thiết. Một số doanh nghiệp lợi dụng khi nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu, sản xuất nước ngoài và chỉ làm công đoạn cực kỳ đơn giản nhưng vẫn dán nhãn hàng Việt Nam. Thậm chí có tình trạng nhập nguyên chiếc rồi xé nhãn mác nơi xuất xứ và gắn mác "made in Vietnam". Tuy nhiên, điều khiến nữ chuyên gia băn khoăn là doanh nghiệp có thể khó khăn khi phải thêm thủ tục chứng minh tỷ lệ gia tăng nội địa, chứng minh quá trình gia công, lắp ráp trong nước không phải là các chu trình giản đơn. "Trước nay không quy định, cứ sản xuất rồi tự dán nhãn hàng Việt Nam và tự chịu trách nhiệm, nhưng khi có quy định thì mọi thứ sẽ khác. Có thể sẽ minh bạch hơn nhưng cũng có thể khó khăn hơn với doanh nghiệp", Giám đốc Trung tâm WTO nêu quan điểm. Về điều này, ông Trần Thanh Hải khẳng định, dự thảo Thông tư không quy định bất kỳ một thủ tục hành chính mới nào, cũng như không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp. "Quy định ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu theo quy định của Nghị định 43. Thông tư lần này chỉ giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ. Các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc "gian lận xuất xứ", tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng", vị này nói. Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cũng cho rằng, những quy định đưa ra lần này sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam. Ở góc độ khác, Luật sư Phạm Duy Khương - Giám đốc Công ty SB Law góp ý, việc đưa ra một bộ tiêu chí hàng "made in Vietnam" cho tất cả loại hàng hoá là chưa cần thiết. Thay vì làm một bộ quy chuẩn mọi mặt hàng thì Việt Nam cần ưu tiên vào một số nhóm cụ thể. Đây là các nhóm hàng đặc thù, là lợi thế của Việt Nam. Còn lại những nhóm hàng khác có thể nghiên cứu sau. Vị luật sư này cũng cho rằng trong khi chờ một bộ tiêu chuẩn về hàng "made in Vietnam" tiêu thụ trong nước, vấn đề quan trọng nhất vẫn là ý thức trách nhiệm của chính doanh nghiệp với mỗi sản phẩm của mình. "Dù doanh nghiệp có ghi xuất xứ hàng hóa ra sao, có đẳng cấp, có công nghệ như thế nào đi chăng nữa mà người tiêu dùng không chấp nhận thì doanh nghiệp cũng không bán được hàng. Và nếu có gian lận, người tiêu dùng sẽ sẵn sàng tẩy chay", ông Khương nhấn mạnh.
Các công đoạn được coi là gia công đơn giản, theo dự thảo Thông tư của Bộ Công Thương: - Các công việc bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển và lưu kho. - Các công việc như lau bụi, sàng lọc, chọn lựa, phân loại, lau chùi, sơn, chia cắt ra từng phần. -Thay đổi bao bì đóng gói và tháo dỡ hay lắp ghép các lô hàng; đóng chai, lọ, đóng gói, bao, hộp và các công việc đóng gói bao bì đơn giản khác. - Dán lên sản phẩm hoặc bao gói của sản phẩm các nhãn hiệu, nhãn, mác hay các dấu hiệu phân biệt tương tự. - Trộn đơn giản các sản phẩm, dù cùng loại hay khác loại. - Lắp ráp đơn giản các bộ phận của sản phẩm để tạo nên một sản phẩm hoàn chỉnh. - Giết, mổ động vật. Anh Minh
Nhiều trường hợp hàng hóa được sản xuất, nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng lại gắn mác là hàng “Made in Vietnam” để gian lận thương mại. Vậy hiểu đúng về khái niệm made in Việt Nam như thế nào, mời các bạn cùng theo dõi bài viết sau đây của VnDoc. Made in Việt Nam là gìMade in Vietnam là các chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa. Và đều được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành. Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cách xác định nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa được quy định tại Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về xuất xứ hàng hóa.
Một số quy định trong xuất xứ hàng hóaVề khái niệm xuất xứ hàng hóa: “là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó” – Khoản 1, Điều 3 Nghị định đã dẫn. Như vậy theo quy định này thì có thể thấy chỉ có các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mới được xem xét đối với chỉ dẫn về xuất xứ hàng hóa. Các chỉ dẫn khác chẳng hạn như “Design by Apple” hay “Design by Bkav” không được coi là chỉ dẫn về xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra, để xác định xuất xứ hàng hóa, Nghị định số 19/2006 xác định có 2 quy tắc cơ bản như sau: – Quy tắc xuất xứ ưu đãi: Việc xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu để được hưởng chế độ ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan được áp dụng theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quy định chi tiết việc thi hành các Điều ước này. – Quy tắc xuất xứ không ưu đãi: Thì theo quy tác xác định này thì xuất xứ hàng hóa lại được chia thành các trường hợp sau: + Xuất xứ thuần túy; + Xuất xứ không thuần túy; + Những công đoạn gia công, chế biến giản đơn không được xét đến khi xác định xuất xứ hàng hoá; Ví dụ về quy tắc xuất xứ ưu đãi có thể tham khảo đến bộ Quy tắc xác định xuất xứ hàng hóa khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc một trong các tài liệu của Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN (AKFTA). Nếu theo bộ quy tắc này thì có thể thấy các quy định về xuất xứ hàng hóa của Bộ quy tắc này tương đồng khá cao với nguyên tắc xác định xuất xứ hàng hóa của Nghị định số 19/2006/NĐ-CP. Theo quy tắc 2 của bộ quy tắc đã viện dẫn thì tiêu chí xuất xứ được phân chia thành: – Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một nước xuất khẩu như được nêu và định nghĩa tại Quy tắc 3; hoặc – Hàng hóa không có xuất xứ thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một nước xuất khẩu, nhưng đáp ứng các Quy tắc 4 hoặc 5 hoặc 6 hoặc 7. Như vậy, có thể thấy quy định của pháp luật Việt Nam và của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia được viện dẫn làm ví dụ thì xuất xứ hàng hóa đều được xác định theo nguyên tắc phân chia thành xuất xứ thuần túy và xuất xứ không thuần túy. Vậy xuất xứ thuần túy, không thuần túy theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế đã viện dẫn khác nhau như thế nào? Hãy cùng tham khảo các bảng so sánh dưới đây về xuất xứ thuần túy và xuất xứ không thuần túy Bảng 1: Xuất xứ thuần túy
Qua bảng trên cho thấy, có sự tương đồng cao về cách xác định các loại hàng hóa có xuất xứ thuần túy giữa pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (đối với điều ước đã được viện dẫn) Như vậy, đối với một sản phẩm có xuất xứ thuần túy thì việc xác định chỉ dẫn về xuất xứ rất đơn giản. Chẳng hạn nếu như sản phẩm vãi thiều Lục Ngạn, vải Thanh Hà được xuất khẩu ra nước ngoài thì có thể tự hào khẳng định luôn là Made in Vietnam (Tất nhiên, để có thể khẳng định điều này một cách hợp pháp thì phải có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp). Bảng 2: Xuất xứ không thuần túy
Như vậy có thể thấy các tiêu chí xác định xuất xứ không thuần túy giữa pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế đã viện dẫn là tương đương nhau. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam và cả điều ước quốc tế đã dẫn đều quy định về những hoạt động không được xét đến khi xác định xuất xứ hàng hóa. Bảng 3: Các hoạt động không được xét đến khi xác định xuất xứ hàng hóa
Đối với sản phẩm quần áo, vì đây là sản phẩm không thuộc danh mục xuất xứ thuần túy, nên việc xác định xuất xứ sẽ căn cứ vào các tiêu chí của xuất xứ không thuần túy. Việc xác định này được thực hiện theo phương pháp loại trừ theo thứ tự ưu tiên sau: Danh mục hàng hóa cụ thể => Chuyển đổi mã số hàng hóa =>Tỉ lệ phần trăm của giá tri hàng hóa =>Công đoạn gia công chế biến. Để xác định hàng hóa có thuộc danh mục hàng hóa cụ thể hay không thì căn cứ vào phụ lục của Thông tư số 08/2006/TT-BTC. Cụ thể, theo danh mục hàng hóa trong phụ lục của tài liệu đã nêu thì quần áo sẽ nằm trong mã HS là 61xx và 62xx trong đó xx là số thứ tự từ 0-9. Cụ thể như sau:
Như vậy, việc nhập nguyên liệu về để gia công thành sản phẩm hoàn chỉnh đáp ứng các tiêu chí chuyển đổi theo danh mục đã liệt kê nêu trên. Nên hàng hóa dệt may của doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn đáp ứng tiêu chí “Made in Vietnam” Phóng viên hỏi: Như vậy, có nhiều sản phẩm được gắn mác “made in Vietnam” nhưng chưa chắc đã là hàng Việt? Phải chăng ta nên chia sản phẩm thành 2 loại, made in Vietnam “xịn” và “không xịn”? Luật sư tư vấn: Việc xác định xuất xứ hàng hóa được xác định theo các tiêu chí đã nêu ở trên và có nguyên tắc xác định rõ ràng nên hoàn toàn không có khái niệm “Made in Vietnam” xịn hay không xịn. Trong trường hợp có sự phân chia thành “xịn” hay “không xịn” mà không có cơ sở pháp lý rõ ràng thì có thể dẫn tới sư phân biệt đối xử gây bất bình đẳng cho các chủ thể tham gia trong cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Việc phân biệt này có thể khiến Việt Nam vi phạm các cam kết về đối xử tối huệ quốc và/hoặc đối xử quốc gia khi gia nhập WTO hoặc các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên. Vấn đề cần đặt ra ở đây chính là kiểm soát việc chỉ dẫn xuất xứ hàng hóa chứ không phải là phân biệt thành “xịn” hay “không xịn” – Đối với mặt hàng công nghệ như điện thoại smartphone thì sao thưa ông? Có những quy định, tiêu chuẩn riêng biệt nào để được gọi là made in Vietnam? Đối với mặt hàng điện thoại smartphone, việc xác định xuất xứ cũng tương tự như đối với mặt hàng may mặc. Đây không phải là sản phẩm có xuất xứ thuần túy nên sẽ được xác định theo xuất xứ không thuần túy. Trong bảng danh mục hàng hóa được ban hành kèm theo thông tư 08/2006 đã nêu không có sản phẩm này. Do đó sẽ áp dụng các tiêu chí theo thứ tự sau Tỉ lệ phần trăm của giá tri hàng hóa =>Công đoạn gia công chế biến. Để xác định được tỉ lệ % của giá trị hàng hóa thì cần phải có các thông tin để thực hiện công thức tính theo quy định của Thông tư số 08/2006 như sau: a) “Tỷ lệ phần trăm của giá trị” là phần giá trị gia tăng có được sau khi một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất, gia công, chế biến các nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ này so với tổng trị giá của hàng hoá được sản xuất ra; b) Phần giá trị gia tăng nói trên phải đạt ít nhất 30% của giá trị hàng hóa được sản xuất ra và được thể hiện theo công thức sau:
c) “Nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất” bao gồm nguyên liệu có xuất xứ từ một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác và nguyên liệu không rõ xuất xứ; d) “Giá nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất” là giá CIF của nguyên liệu nhập khẩu trực tiếp (đối với nguyên liệu có xuất xứ từ một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác) hoặc giá tại thời điểm mua vào ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng (đối với nguyên liệu không rõ xuất xứ) dùng để sản xuất, gia công, chế biến ra sản phẩm cuối cùng; đ) “Giá FOB” là giá ghi trên hợp đồng xuất khẩu và được tính như sau: – Giá FOB = Giá xuất xưởng + các chi phí khác; – “Các chi phí khác” là các chi phí phát sinh trong việc đưa hàng lên tàu để xuất khẩu, bao gồm nhưng không giới hạn bởi chi phí vận tải nội địa, chi phí lưu kho, chi phí tại cảng, phí hoa hồng, phí dịch vụ, và các phí có liên quan trong quá trình đưa hàng lên tàu để xuất khẩu; – “Giá xuất xưởng” = Chi phí sản xuất + Lợi nhuận; – “Chi phí sản xuất” = Chi phí nguyên vật liệu + Chi phí nhân công + Chi phí phân bổ; – “Chi phí nguyên vật liệu” bao gồm chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí vận tải và bảo hiểm đối với nguyên vật liệu đó; – “Chi phí nhân công” bao gồm lương, các khoản thưởng và những khoản phúc lợi khác có liên quan đến quá trình sản xuất; – “Chi phí phân bổ” bao gồm: + Chi phí nhà xưởng có liên quan đến quá trình sản xuất (bảo hiểm nhà xưởng, chi phí thuê và thuê mua nhà máy, khấu hao nhà xưởng, sửa chữa, bảo trì, thuế, lãi cầm cố); + Các khoản thuê mua và trả lãi của nhà máy và thiết bị; + An ninh nhà máy; + Bảo hiểm (nhà máy, thiết bị và vật tư sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm); + Các nhu yếu phẩm cho quá trình sản xuất (năng lượng, điện, và các nhu yếu phẩm khác đóng góp trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất); + Nghiên cứu, phát triển, thiết kế và chế tạo; + Khuôn dập, khuôn đúc, việc trang bị dụng cụ và khấu hao, bảo trì và sửa chữa của nhà máy và thiết bị; + Tiền bản quyền sáng chế (có liên quan đến những máy móc có bản quyền hoặc quá trình sử dụng trong việc sản xuất hàng hoá hoặc quyền sản xuất hàng hoá); + Kiểm tra và thử nghiệm nguyên vật liệu và sản phẩm; + Lưu trữ trong nhà máy; + Xử lý các chất thải; + Các nhân tố chi phí trong việc tính toán giá trị của nguyên vật liệu, như chi phí cảng và chi phí giải phóng hàng và thuế nhập khẩu đối với các thành phần phải chịu thuế. Mời các bạn tham khảo thêm: Đăng bởi: Hà Nội 1000 Chuyên mục: Hỏi Đáp |