Miền Bắc rút ra bài học gì sau cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ

Ngày 27/3/1964, Hội nghị Chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập khai mạc tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội [Nguồn ảnh: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam].

[Thanhuytphcm.vn] - Năm 1964, tình thế của Mỹ - Ngụy ở miền Nam lâm vào thế nguy ngập, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại và đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Nhằm cứu vãn tình hình, đế quốc Mỹ quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam bằng một chiến lược mới và phải làm suy yếu miền Bắc Việt Nam, vì đây là hậu phương chiến lược, quyết định tới kết cục chiến tranh ở miền Nam. Mỹ cho rằng, biện pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết chiến tranh ở miền Nam là dùng sức mạnh quân sự phá hoại triệt để hậu phương miền Bắc.

Để thực hiện mục đích đó, một mặt, Mỹ tiến hành do thám miền Bắc, khai thác tin tức tình báo và tổ chức, sử dụng biệt kích phá hoại. Mặt khác, đẩy mạnh các cuộc tuần tra trinh sát của tàu chiến Mỹ vào Vịnh Bắc Bộ để phô trương thanh thế và thu thập tình báo về phòng thủ bờ biển của miền Bắc Việt Nam, chuẩn bị sẵn kịch bản để tạo cớ, biện minh cho hành động đánh phá miền Bắc.

Tháng 3/1955, tại Hội nghị Trung ương 7 [khóa II], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận định: Kẻ thù cụ thể, trước mắt, nguy hiểm nhất của nhân dân ta là đế quốc Mỹ… miền Bắc nước ta có vị trí vai trò là căn cứ địa cho sự nghiệp cách mạng cả nước… Vì thế, phá hoại miền Bắc là một bộ phận không thể tách rời trong âm mưu xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ… Trong khi đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện miền Nam, quân dân ta trên miền Bắc phải nâng cao cảnh giác, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng đối phó với khả năng đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước.

Tháng 1/1964, Bộ Tổng Tham mưu triệu tập Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc, thực hiện báo động sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng phòng không và toàn thể lực lượng vũ trang miền Bắc. Đây là sự chỉ đạo sáng suốt của Quân ủy Trung ương nhằm xây dựng thế trận phòng không nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không liên hoàn, vững chắc để đối phó với phương thức tác chiến mới của kẻ thù. Theo đó, hệ thống phòng không ba thứ quân được triển khai, xây dựng rộng khắp, tập trung tại các trọng điểm ở các thành phố, khu công nghiệp, sân bay, bến cảng và các công trình lớn; thành lập lực lượng phòng không nhân dân ở các địa phương, hình thành mạng lưới bắn máy bay tầm thấp trên toàn miền Bắc với 2.500 tổ dân quân tự vệ săn máy bay, bí mật mai phục sẵn trên các địa bàn trọng điểm và hướng địch dễ đột nhập.

Ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt. Người tuyên bố “Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh bại chúng, vì các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết sức ủng hộ ta; vì nhân dân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cũng sẽ phản đối chúng”[1]. Người kêu gọi quân dân miền Bắc “làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”[2].

Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương, từ công trường, nhà máy đến nông thôn, đô thị đã dấy lên quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Khắp nơi trên miền Bắc, xuất hiện nhiều khẩu hiệu: nông dân “tay cày, tay súng”; công nhân “tay búa, tay súng”; các đơn vị bộ đội có phong trào thi đua chuẩn bị chiến đấu sôi nổi, như: “người sẵn sàng, súng sẵn sàng, địch vào là biết, địch đến là diệt”, hoặc “kiên quyết bắn rơi thật nhiều máy bay Mỹ”, “giáng trả chúng những đòn thật đau”.

Đến cuối tháng 7/1964, mọi công tác chuẩn bị lực lượng, thế trận, sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc đặc biệt là của hai quân chủng Phòng không - Không quân và Hải quân đã cơ bản hoàn thành.

Nhằm kiếm cớ leo thang đánh phá miền Bắc, đồng thời để xoa dịu dư luận trong nước và thế giới, giới cầm quyền Mỹ đã dày công nghiên cứu và đưa ra nhiều phương án khác nhau tiến công vào miền Bắc Việt Nam. Kịch bản “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” được Mỹ công phu dàn dựng ra đời trong bối cảnh ấy.

Thực hiện âm mưu trên, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã nhiều lần cho tàu chiến quấy rối sâu trong hải phận miền Bắc nước ta, vừa đẩy mạnh các hoạt động trên biển, trên trời, vừa rêu rao sẽ oanh tạc miền Bắc Việt Nam để gây chú ý của dư luận.

Bộ đội Hải quân Việt Nam đánh trả máy bay Mỹ. [Nguồn ảnh: Tạp chí Quốc phòng toàn dân].

Đêm 31/7, rạng sáng 1/8/1964, Mỹ cho tàu khu trục Ma-đốc ngang nhiên tiến vào vùng biển miền Bắc Việt Nam từ Đèo Ngang [Quảng Bình] ra đảo Hòn Mê [Thanh Hóa] để trinh sát và khiêu khích lực lượng của ta, có lúc chỉ cách đèo Ngang khoảng 8 hải lý, vi phạm lãnh hải của ta. Ngày 2/8/1964, tàu Ma-đốc bị tàu phóng lôi của Hải quân Nhân dân Việt Nam tấn công, đánh đuổi, buộc địch phải rút chạy ra vùng biển quốc tế.

Sự kiện này được dư luận nhiều nước, có cả dư luận Mỹ thừa nhận và kịch liệt lên án hành động xâm phạm trắng trợn đó của Mỹ. Bị đánh đuổi, Mỹ đã dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. Đây chỉ là nguyên cớ nằm trong tính toán có chủ định của Mỹ nhằm mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Giới cầm quyền Mỹ hiểu rằng, nếu chỉ vin vào nguyên cớ này để đánh phá miền Bắc Việt Nam thì “chưa đủ sức thuyết phục” dư luận. Vì vậy, Mỹ phải dựng thêm sự kiện khác. Ngày 4/8/1964, Mỹ đã cố tình vu cáo lực lượng Hải quân miền Bắc tiếp tục “vô cớ” tiến công tàu Ma-đốc và Tơ-nơ-gioi khi đang làm nhiệm vụ trong hải phận quốc tế, lấy cớ đó để thúc ép Quốc hội Mỹ thông qua cái gọi là “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”.

Ngày 5/8/1964, Mỹ huy động 64 máy bay ồ ạt, bất ngờ tiến công ném bom vào nhiều mục tiêu quan trọng ven biển Bắc Bộ là Cảng Gianh [Quảng Bình], Vinh - Bến Thủy [Nghệ An], Lạch Trường [Thanh Hóa] và Bãi Cháy [Quảng Ninh], mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn vào miền Bắc Việt Nam. Nhờ đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của địch, với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao độ, quân và dân miền Bắc, với nòng cốt là lực lượng Phòng không - Không quân và Hải quân đã anh dũng đánh trả các đợt tiến công của địch, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống và tiêu diệt nhiều phi công Mỹ, giáng cho Mỹ một đòn thất bại nặng nề.

Chiến thắng oanh liệt này đã mở ra truyền thống đánh thắng trận đầu của quân và dân miền Bắc trong cuộc đọ sức với lực lượng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Trên trường quốc tế, hành động của Mỹ đã tạo nên một làn sóng ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược trên thế giới và cả trong lòng nước Mỹ.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – Chúng cháu quyết mang tinh thần ấy trong mỗi lần xuất kích. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội Không quân Nhân dân Việt Nam ngày 9/2/1967. [Nguồn ảnh: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam].

Sự kiện vịnh Bắc Bộ và chiến công đánh thắng trận đầu của quân và dân miền Bắc bắt nguồn từ tầm nhìn xa trông rộng, sự chỉ đạo chiến lược tài tình sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt, đặc biệt là về mặt chính trị và quân sự, là một mốc son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam. Chiến công này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí leo thang chiến tranh của kẻ thù; tạo khí thế, niềm tin vào vũ khí, trình độ tổ chức, chỉ huy, vào khả năng chiến đấu của bộ đội, đồng thời, khẳng định quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ. Đây là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, nghệ thuật quân sự “lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều”, đánh địch bằng vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có; là thắng lợi của trí thông minh, lòng dũng cảm của quân dân ta, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của đồng bào và chiến sĩ miền Nam tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi quyết định, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng triệu người đang đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ trên thế giới.

Qua “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” và chiến công đánh thắng trận đầu, chúng ta đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc:

- Xác định đúng kẻ thù, nhận rõ nguyên nhân, nguyên cớ, âm mưu của kẻ thù và khả năng của đối phương; những chỗ mạnh chỗ yếu của địch, của ta; chủ động tổ chức lực lượng và thế trận để đối phó kịp thời, hiệu quả, kiên quyết không mắc mưu địch trong mọi tình huống.

- Thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn, ý đồ của địch, tránh mắc mưu khiêu khích để họ tạo cớ hợp lý cho những hành động sai trái.

- Nêu cao tinh thần tự lực tự cường, dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó, đặc biệt coi trọng công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ huy và nắm chắc lực lượng, chỉ đạo chặt chẽ từng giai đoạn của cuộc chiến đấu, bảo đảm yếu tố bí mật bất ngờ, nắm vững thời cơ, vận dụng cách đánh hợp lý đạt hiệu quả cao.

Truyền thống hôm qua là sức mạnh của hôm nay. Biết vận dụng sáng tạo và phát huy tốt những bài học kinh nghiệm từ trong thực tiễn đấu tranh cách mạng sẽ là một động lực hết sức quan trọng để chúng ta vững bước trên con đường hội nhập và phát triển. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần phát huy bài học rút ra từ “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

_______________________

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011, tập 14, tr. 279.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011, tập 14, tr. 278.

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề