Người gia rai sống ở đâu

Biên phòng - Nói đến Tây Nguyên, người ta nghĩ đến vùng đất giàu bản sắc văn hóa. Những phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã góp phần làm nên sự đa dạng trong một thể thống nhất của bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngày 14-6, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam [thị xã Sơn Tây, Hà Nội], đồng bào dân tộc Gia Rai, xã Ia Broăi, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai đã tái hiện lễ cúng lên nhà Rông mới. Đây là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng vẫn được bà con buôn làng Gia Rai gìn giữ và coi trọng trong thời đại ngày nay.

Sau phần nghi thức cúng và nhảy múa, uống rượu cần trong nhà Rông, đồng bào dân tộc Gia Rai xuống cây nêu ở sân vui hội chung niềm vui với khách mời. Ảnh: Nguyên Thanh

Đồng bào dân tộc Gia Rai là một trong 54 dân tộc Việt Nam luôn chung sống đoàn kết bên nhau chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, nhưng đồng bào vẫn giữ được sắc thái văn hóa riêng, làm nên sự đa dạng trong một thể thống nhất của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Theo quan niệm của đồng bào Gia Rai, nhà Rông là biểu tượng của cộng đồng vô cùng quan trọng đối với đời sống tinh thần và đời sống tâm linh. Xây dựng nhà Rông, di dời hay tu sửa lại nhà Rông là công việc hệ trọng của cả làng, phải cùng ý nguyện và có sự nhất trí cao, có khi kéo dài hàng tháng, chuẩn bị hàng năm mới thực hiện được.

Sau khi xây dựng mới hoặc tu sửa lại nhà Rông, phải tổ chức lễ cúng lên nhà Rông mới. Già làng Rah Lan Khun, ở xã Ia Broăi, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai cho biết: “Lễ cúng là dịp để cảm tạ thần linh [Giàng] đã phù trợ cho đồng bào có ngôi nhà mới, trợ giúp cho người dân bản làm ăn phát đạt, ấm no, hạnh phúc. Hoạt động này nhằm tôn vinh giá trị truyền thống của gia đình thông qua phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc”.

Để buổi lễ được diễn ra, đồng bào Gia Rai thường phải chuẩn bị công phu như thời gian, vật liệu trồng cây nêu, vật hiến sinh [trâu, dê và heo], lương thực, thực phẩm khác. Nghi thức đầu tiên là chọn vị trí trồng cây nêu. Họ chọn một ghè rượu nhỏ và cắt tiết một con gà trống cúng báo với Giàng, xin phép mở hội. Các già làng đem bát tiết ra vị trí dựng nêu. Làng dựng 2 cây nêu, một cây để buộc trâu, còn một cây để buộc dê, cả hai con dê và trâu đều phải là con đực màu đen.

Tại lễ cúng trên nhà Rông, những thanh niên, trai tráng trong làng thực hiện động tác gõ cồng, chiêng trong suốt buổi cúng để bày tỏ lòng thành kính với Giàng. Người cao tuổi nhất và hiểu biết nhất về phong tục dân tộc của làng được mời đến. Những người già, uy tín trong làng cũng được mời về, đại diện các gia đình cũng được tập trung ở lễ này gồm toàn đàn ông, không có đàn bà.

Chủ lễ là già làng có uy tín với cộng đồng, am hiểu luật tục, có vai trò dẫn dắt buổi lễ. Trước tiên là phần cúng dưới nhà gần chân cầu thang nhà Rông. Đây là lễ xua đuổi thần xấu, thần không tốt còn bám trên cây gỗ để làm nhà. Chủ lễ múc một ít nước vào bát đồng, vừa đọc lời cúng, vừa rót nhẹ vào ghè rượu cúng đến khi hết nước trong bát thì cũng dứt lời cúng.

Sau đó, chủ lễ cùng hội đồng già làng và dân bản cùng lên nhà Rông mới bàn bạc các công việc, chuẩn bị các lễ vật để thực hiện lễ cúng trong nhà. Khi các lễ vật cúng trong nhà Rông đã được chuẩn bị sẵn sàng, chủ lễ rót rượu vào bát đồng, lấy một phần thịt bỏ vào bát đi ra cửa vừa đổ rượu, vừa đọc lời cúng, sau đó chủ lễ ra cửa chính để cúng.

Chủ lễ quay lại chỗ cúng ban đầu, múc đầy nước vào bát, tạt nước vào nhà, vào mọi người với ý nghĩa cầu mong có cuộc sống hòa thuận, ấm no, hạnh phúc. Rồi chủ lễ vừa cúng, vừa đánh cồng chiêng, nhảy múa xung quanh ghè rượu. Kết thúc lễ cúng, cả làng vui vẻ uống rượu cần và chúc mừng chủ nhà.

Khi men rượu cần đã “ngấm” vào cơ thể cũng là lúc phần hội được diễn ra với sự tham gia của toàn thể dân làng. Bà con sẽ vui vẻ hát, nhảy múa trong âm thanh của tiếng cồng, chiêng với tinh thần được giải thoát dưới sự che chở của thần nhà Rông, với niềm tin, niềm vui, sự say sưa cộng cảm của cả cộng đồng.

Kết thúc lễ lên nhà Rông mới, đồng bào Gia Rai tiến hành lễ cúng bến nước. Với người dân tộc Gia Rai, bến nước cũng đồng nghĩa với làng, là những người cùng uống chung một nguồn nước. Đồng bào tin rằng ở mỗi khúc sông có một vị thần cai quản là Thần Nước [Yang Ia]. Đồng bào quan niệm rằng: Cầu Yang Ia ban nguồn nước dồi dào để phục vụ canh tác, sản xuất mùa vụ bội thu, dân làng được ấm no, khỏe mạnh. Xin Yang Ia đừng trách phạt dân làng khi dân làng thực hiện việc dọn dẹp vô tình động đến nơi cư ngụ của Yang Ia.

Kết thúc lời khấn, già làng nhận lấy quả bầu khô lấy nước đổ vào ghè rượu. Già làng là người đầu tiên uống rượu cần, sau đó lần lượt dân làng uống. Buổi lễ kết thúc trong âm điệu của vòng xoang với âm hưởng của nền nhạc từ các nhạc cụ dân gian và nhạc cụ dân tộc.

Nguyên Thanh

Tên tự gọi: Gia Rai.
Tên gọi khác: Giơ Ray, Chơ Ray.
Nhóm địa phương: Chor, Hđrung [gồm cả Hbau, Chor], Aráp, Mthur, Tơbuân.
Dân số: 513.930 người [Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019].
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ hệ Malayô Pôlynêixa [ngữ hệ Nam Ðảo].

Lịch sử: Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia [vua nước] và Pơ tao pui [vua lửa] chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hoà... Trước thế kỷ XI người Ê Ðê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Ðêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá [vua nước], Hoả Xá [vua lửa]. Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế trồng trọt là cái gốc của hoạt động sản xuất. Ðất đai là đối tượng tác động lao động được phân chia thành hai loại - đất chưa canh tác có tên: đê, trá, lon, vô chủ và đất canh tác gọi chung là Hma, phần sở hữu của mỗi gia đình. Hma gồm những mảnh đất trồng trọt theo cách nửa vườn, nửa rẫy; nương phát, đốt, cuốc xới đất và trọc lỗ tra hạt. Còn ruộng nước dùng cuốc xới ; sục bùn và đang chuyển sang cày, bừa dùng 2 bò kéo.

Tượng nhà mồ là nét độc đáo trong nghệ thuật điêu khắc Tây Nguyên. Tượng nhà mồ Gia Rai gồm nhiều dạng tượng người và thú vật. Cặp tượng nam nữ khoả thân trong ảnh được dựng ở bên trái của nhà mồ về hướng đông.

Chăn nuôi gia đình có: trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà, chó... Trong đó trâu là vật ngang giá trong việc trao đổi vật quý như chiêng, ché và hiến sinh trong lễ nghi tín ngưỡng. Nghề phụ gia đình có: mộc, rèn và đan lát. Những người thợ thủ công đã làm ra những chiếc gùi dùng để đựng đồ mặc, trang sức, vận chuyển. Nghề dệt với khung dệt kiểu Inđônêdiêng khá thịnh hành tạo được tấm vải khổ rộng, hoa văn đẹp.

Ăn: Gạo tẻ là lương thực chính; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau, muối, ớt, canh rau, lâu lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam nữ đều hút thuốc lá.

Mặc: Ðàn ông đóng khố vải trắng kẻ sọc nhiều màu [toai], ngày lễ đóng khố vải chàm dài 4 m và rộng 0,30 m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều MÀU Ở HAI ÐẦU. Áo màu đen cộc tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô. Pơtao hoặc chủ làng mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu là áo. Ðàn bà mặc váy chàm [dài 1,40 m x rộng 1 m], có đường viền hoa văn chạy quanh gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống nên khi mặc chỉ cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh ngắn bó sát thân, dài tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng hoa văn chỉ màu. Nơi ở quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.

: Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai loại. Nhà sàn dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung bình cho mỗi nhà. Nhà được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ quay về hướng Bắc và bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m. Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong nhà chỉ có một bếp.

Phương tiện vận chuyển: gùi có hai dây đeo qua vai là hình thức phổ biến. Ngoài ra có ngựa, voi để thồ và cưỡi. Voi còn dùng để kéo...

Quan hệ xã hội: Làng [Plơi hoặc Bôn] vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã hội, có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung [Phun pơ bút]. Hội đồng chọn người đứng đầu làng [Ơi pơ thun, Thap lơi hay Khoa plơi], có lệ làng gọi là Kđi. Xã hội Gia Rai truyền thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring. Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp việc xét xử có Po phắt kđi và Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở thành liên minh quân sự.

Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Ðgioai. Mỗi họ thường được phân chia nhiều ngành hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ là nét nổi bật của người Gia Rai khác với trường hợp người Ê Ðê là đại gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau. Tuổi từ 18-19 nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy chồng. Phong tục giản đơn, không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động. Bảo lưu tục chồng chết, vợ lấy em chồng và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy chị vợ. Khi đã thành vợ thành chồng thì đàn ông phải sang nhà vợ, không có trường hợp ngược lại.

Khi tổ chức các lễ hội đâm trâu cúng thần, người Gia Rai thường biểu diễn cồng chiêng. Những người đàn ông đóng khố, khoác trên mình tấm choàng lớn có hoa văn trang trí, vừa đánh cồng, chiêng vừa nhảy múa xung quanh cột đâm trâu.

Sinh đẻ: Bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được làm việc nặng nhọc. Họ rất lo sợ đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ phải kiêng khem nhiều thứ như không ăn cơm nấu mà chỉ dùng cơm lam, không ăn thịt mà chỉ ăn rau...

Ma chay: Người Gia Rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn chung một huyệt. Người đàn ông chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình. Trong huyệt chung ấy, các quan tài được xếp kề sát bên nhau theo chiều ngang rồi chồng lên theo chiều dọc. Khi quan tài cao bằng miệng huyệt thì lấy ván kê bốn bề để chôn tiếp vài ba lớp nữa mới làm lễ "bỏ mả" [Họa lui, Thi nga hay Bó thi] - một nghi thức lớn trong quá trình tang lễ.

Nhà mới: Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo đặt trên đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm sự linh ứng của thần đất. Sau 3 ngày, 3 đêm đi lật bát lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất hạt nào thì phải đi phải đi bói tìm chỗ khác. Ðặt hạt gạo để bói xong tổ chức ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng nhà xong lại mở hội nhà mới 3 hôm nữa mới kết thúc.

Thờ cúng: Người Gia Rai theo vạn vật hữu linh. Thần linh [Yang] có nhiều loại, trong đó có ba loại nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hàng năm hay nhiều năm một lần:

  • Thần nhà [Yang sang] lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới dựng thì phải tiến hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.
  • Thần làng [yang ala bôn] và thần nước [yang ia] là lực lượng bảo vệ làng xóm và cuộc sống của mọi thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.
  • Thần vua [Yang pó tao] do vua lửa, vua nước, vua gió [ptao agin] tiến hành lễ cầu trời, mưa thuận, gió hoà và mùa màng tươi tốt.

Ngoài ra, người Gia Rai còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có hiện tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma lai.

Lễ tết: Xưa nam nữ đến tuổi thành niên có tục cưa răng hàm trên. Việc này do ông già Pô khoa tkơi thực hiện bằng cách lấy liềm cắt hoặc dùng một viên đá ráp chà xát vào hàm răng trên, ở ven suối. Cầm máu răng bằng lá thuốc [Tkoi am]. Nữ 1-2 tuổi xâu lỗ tai, sau đó lấy bấc cây căng dần tai ra để đến khi trưởng thành thì đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính đến 6 cm. Nam giới không căng tai mà chỉ đục lỗ để đeo khuyên.

Lễ nghi lớn nhất là lễ bỏ mả, tạc tượng mồ, lễ lên nhà mới, có ăn, uống, hát, biểu diễn cồng chiêng.

Lịch: Tháng giêng được tính từ ngày có trận mưa đầu tiên tương đương với tháng 4 dương lịch. Tháng 12 lịch Gia Rai [tháng 3 dương lịch] gọi là Blanning, nghỉ ngơi lao động và làm các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng.

Học: Người Gia Rai đã có bộ chữ theo mẫu tự La-tinh. Giống như tất cả các dân tộc khác, hiện nay học sinh đều học tiếng và chữ phổ thông.

Văn nghệ: Người Gia Rai có nhiều trường ca như Ðăm San, Xinh Nhã, Ðăm Di... thể hiện dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân gian Gia Rai có một số động tác mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Ðàn Tơ rưng, Krông put, Tưng nưng ... rất được phổ biến.

Chơi: Thanh niên thích chơi kéo co trong ngày lễ.

Video liên quan

Chủ Đề