Nguyên nhân ra đời của tiền tệ là gì

Tiền ra đời từ nhu cầu kinh tế thực tế của loài người khi mà nền sản xuất đạt đến một trình độ nhất định và con người đã có thể tự do đi lại trong một phạm vi lãnh thổ rộng lớn. Khi đó, thay vì phải chuẩn bị hành lý cồng kềnh cho chuyến đi dài ngày, con người chỉ cần mang theo một lượng nhỏ kim loại quý hoặc tiền được ưa chuộng ở nhiều nơi để đổi cho mình những nhu yếu phẩm cần thiết. Từ đó các hoạt động thương mại đã ra đời, tiền tệ được quy ước và ban hành, quản lý bởi nhà nước. Đổi lại, nhà nước có quyền thu thuế từ các hoạt động thương mại. Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà luật pháp bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán.

Theo Mác tiền tệ là sản phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi nghiên cứu về tiền Mác viết: "Tiền là một vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi". Như vậy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của tiền tệ là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá.

Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ người sản xuất ra lúa cần cái rừu để cuốc đất nhưng người có rừu không cần lúa mà cần vải, việc này buộc người có lúa phải đổi lấy vải và sau đó dùng vải để đổi lấy rừu. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra tìm những vật làm trung gian cho các cuộc trao đổi đó, đây là vật ngang giá.

Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua bốn giai đoạn:

Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa ngẫu nhiên phản ánh giá trị của một hàng hoá khác

Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng: khi nhiều hàng hoá đều có khả năng trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó

Hình thái giá trị chung khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác.

Có nhiều loại hàng hóa đã từng được sử dụng để làm vật ngang giá chung như: gia súc, đồng, bạc, vàng... Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi riêng khi làm phương tiện trao đổi - vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá chung bằng hàng hóa chỉ được hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn, trong đó chủ yếu là vàng.

Khi phần lớn các quốc gia, các vùng đều sử dụng vàng làm vật ngang giá chung trongtrao đổi hàng hóa với nhau [khoảng cuối thế kỷ 19], vàng loại bạc và trở thành vật ngang giá chung - thế giới độc nhất.

Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế. 

Nguồn: Ths. Đặng Thị Việt Đức - Ths. Phan Anh Tuấn [Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa]

Nguồn gốc của tiền tệ

Tiền ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quá trình phát triển của các hình thái biểu hiện của giá trị:

>> Xem thêm:

– Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên ==> hình thái phôi thai của tiền tệ.

– Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hóa ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hàng hóa nào đó được trao đổi với nhiều hàng hóa khác một cách thông thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng.

– Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hóa được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hóa đều đổi thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung, miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.

Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các hàng hóa ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hóa đóng vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng.

Bản chất của tiền tệ

Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại hàng hóa. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

Chức năng của tiền tệ

Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:

[i] Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.

[ii] Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực [không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền]. Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.

[iii] Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.

[iv] Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.

[v] Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.

Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.

Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền có 5 chức năng. Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.

[Last Updated On: 02/04/2022]

Tiền tệ và lưu thông tiền tệ theo quan điểm của Karl Marx. – Karl Marx nghiên cứu tiền tệ có đầy đủ giá trị nội tại [tiền vàng – tiền bản vị], tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, từ đó hiểu được ưu điểm và hạn chế khi sử dụng tiền tệ.

1. Nguồn gốc ra đời của tiền tệ

Có rất nhiều các học thuyết bàn đến nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Nhưng có thể chia ra hai trường phái chính. Trường phái thứ nhất cho rằng: tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hóa. Trường phái thứ hai cho rằng tiền tệ không sinh ra từ hàng hóa mà phát sinh do ý muốn chủ quan của con người.

Môi trường phải nghiên cứu nguồn gốc của tiền tệ có sự khác nhau cơ bản. Trường phải thứ nhất nghiên cứu tiền tệ là tiền thực, tiền có đầy đủ giá trị nội tại – tiền vàng, còn trường phái thứ hai nghiên cứu các dấu hiệu giá trị mà hình thái điển hình của các dấu hiệu giá trị là tiền giấy và tiền kim loại kém giá.

Karl Marx nghiên cứu hình thái tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình trao đổi hàng hóa, chứ không nghiên cứu các hình thái tiền tệ thuộc về một giai đoạn cao hơn của quá trình trao đổi.

Để nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ, Karl Marx đi từ việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị. Theo học thuyết giá trị của mình KMarx nghiên cứu bốn hình thái giá trị sau:

– Hình thái giá trị giản đơn còn gọi là hình thái giá trị ngẫu nhiên.

– Hình thái giá trị mở rộng còn gọi là hình thái giá trị đẩy đủ.

– Hình thái giá trị chung còn gọi là hình thái giá trị phổ biến.

– Hình thái tiền tệ.

1.1. Hình thái giá trị giản đơn [ngẫu nhiên]

Đây là hình thái giá trị đầu tiên, xuất hiện vào giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy, khi trình độ sản xuất trong các công xã đã bắt đầu phát triển, là tiền đề nảy sinh quan hệ trao đổi. Quan hệ trao đổi trong công xã chỉ mang tính chất ngẫu nhiên, cá biệt và giản đơn mà thôi.

Phương trình trao đổi:

x hàng hóa A = y hàng hóa B

Hình thái giá trị giản đơn có những đặc trưng sau đây:

– Trao đổi hàng hóa chưa trở thành nhu cầu của con người.

– Giá trị của một hàng hóa này chỉ có thể biểu hiện thông qua một hàng hóa khác một cách ngẫu nhiên.

– Trao đổi rất giản đơn và mang tính trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác [vật – vật], quan hệ trao đổi chỉ có thể được thực hiện khi nào được thỏa mãn tất cả các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian. – Vật ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính giản đơn.

1.2. Hình thái giá trị mở rộng [đầy đủ]

Hình thái này xuất xứ khi trình độ sản xuất trong các công xã ngày càng phát triển hơn, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, tạo khả năng trao đổi ngày càng lớn hơn.

Mặt khác, do sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sự hình thành chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xuất hiện cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề cho sự phát triển của trao đổi hàng hóa, làm cho trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu và đã được mở rộng hơn.

Phương trình trao đổi:

Đặc trưng của hình thái này:

– Trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu của con người và phức tạp hơn. – Giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau.

– Trao đổi hàng hóa vẫn là trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác, nghĩa là quá trình mua đồng thời là quá trình bán, nên vẫn phải lệ thuộc vào các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian.

– Vật ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính đặc thù và riêng biệt.

1.3. Hình thái giá trị chung

Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, nên trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu thường xuyên hơn, chuỗi hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá ngày càng dài vô tận và chồng chéo lên nhau, làm cho quan hệ trao đổi rất khó khăn và phức tạp.

Mặt khác trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao làm cho sản xuất và đời sống bị lệ thuộc vào trao đổi. Do đó trao đổi không chỉ là nhu cầu thường xuyên mà còn mang tính cấp bách. Trao đổi trực tiếp vật – vật không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng hình thức trao đổi hoàn thiện hơn, đó là trao đổi gián tiếp thông qua một hàng hóa trung gian.

Phương trình trao đổi:

Đặc trưng:

– Trao đổi đã trở thành cầu thường xuyên hơn và mang tính cấp bách.

– Giá trị hàng hóa được biểu hiện một cách thống nhất. Không còn trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác nữa, mà trao đổi thông qua một hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung

1.4. Hình thái tiền tệ

Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai xuất hiện, sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà thậm chí còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, đã dẫn tới quan hệ trao đổi trở thành nhu cầu thường xuyên và mang tỉnh cấp bách hơn, mở rộng hơn làm phá vỡ phạm vi địa phương chặt hẹp trước đây, do đó đòi hỏi:

– Vật ngang giá chung phải thống nhất vào một hàng hóa duy

nhất trong phạm vi quốc gia, quốc tế.

– Vật ngang giá chung phải đáp ứng điều kiện:

+ Có giá trị cao. + Thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, dễ gộp lại, ít bị hao mòn giá trị.

+ Không bị các phản ứng hóa học làm hư hỏng .

Hàng hóa được chọn làm vật ngang giá độc quyền để biểu hiện và đo lường giá trị của mọi hàng hóa trong phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế phải là vàng.

Vì sao lại phải là vàng? vì chỉ có vàng mới là thứ kim loại duy nhất thỏa mãn các điều kiện trên đây nên vàng trở thành tiền tệ và có tên gọi là tiền tệ.

Phương trình trao đổi:

Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị của Karl Marx chúng ta thấy rằng:

Lúc đầu vật ngang giá chung là những hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho từng bộ lạc hoặc từng địa phương. Sau đó vật ngang giá chung có ý nghĩa tượng trưng như: vỏ sò, xương thủ, vòng đá. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng và trở thành nhu cầu thường xuyên hơn, cấp bách hơn của các bộ tộc, lúc đó vật ngang giá chung được lựa chọn là các kim loại.

Kim loại được sử dụng đầu tiên làm vật ngang giá chung là đồng, sau đồng là bạc, đến đầu thế kỷ XIX vàng đóng vai trò vật ngang giá chung. Khi vàng độc quyền đóng vai trò vật ngang giả chung, nó được gọi là kim loại tiền tệ, hay tiền tệ.

Như vậy tiền tệ là một loại hàng hóa, nhưng nó lại có khả năng trao đổi trực tiếp với nhiều loại hàng hóa khác và trước khi trao đổi với chúng, vàng phải do được giá trị của những hàng hóa này. Chính vì vậy mà tiền tệ không chỉ là hàng hóa thông thường mà còn là hàng hóa đặc biệt.

2. Bản chất của tiền tệ

2.1. Khái niệm

Tiền tệ là một hàng hóa – hàng hóa đặc biệt, độc quyền đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường, biểu hiện giá trị của các hàng hóa và là phương tiện lưu thông hàng hóa.

Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ cho ta thấy, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó có nghĩa rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tổn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu còn sản xuất và trao đổi hàng hóa ở đó còn tồn tại tiền tệ và khi nào không còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì lúc đó sẽ không còn tiền tệ nữa.

Tiền tệ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa, đã chứng minh nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế thị trường. Quá trình này thể hiện ở chỗ “cùng với sự chuyển hóa chung của sản phẩm lao động thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa thành tiền tệ”.

Vàng trở thành tiền tệ. Vì sao vàng lại trở thành tiền tệ? Vì bản thân kim loại này vốn đã là hàng hóa. Do đó cũng như các hàng hóa khác tiền tệ có hai thuộc tỉnh: Giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị sử dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã hội, tiền tệ là thước do giá trị và phương tiện lưu thông cho cả thế giới hàng hóa. Vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa nào thay thế được vàng.

Khi đề cập về vấn đề này Karl Marx đã viết: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”

Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rõ rệt. Một cực là tất cả các hàng hóa thông thường có nhu cầu biểu hiện giá trị của mình ở tiền tệ và các hàng hóa này có thể thỏa mãn được một hoặc một vài nhu cầu nào đó của con người. Còn bên kia – cực đối lập, là tiền tệ – vàng, trực tiếp biểu hiện giá trị các hàng hóa. Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều kiện nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của con người.

2.2. Bản chất

– Tiền tệ là hàng hóa vì tiền tệ có hai thuộc tính như các hàng hóa thông thường khác, đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.

– Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì ngoài giá trị sử dụng riêng ra tiền tệ còn có giá trị đặc biệt, đó là có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều kiện nào, trong bất kỳ không gian và thời gian nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu của con người.

Bản chất của tiền chỉ được hiểu một cách đầy đủ thông qua các chức năng của tiền tệ.

[Nguồn tài liệu: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, 2010]

Video liên quan

Chủ Đề