Phân biệt các dạng thuốc mỡ sau vệ thành phần và thể chất
Show Dạng thuốc có thể chất mềm, đồng nhất dùng để bôi lên da và niêm mạc nhằm gây tác dụng tại chỗ hoặc đưa dược chất thấm qua da và niêm mạc, làm tròn hoặc bảo vệ. Thành phần của thuốc gồm một hay nhiều dược chất, được hòa tan hay phân tán đồng đều trong một hoặc hỗn hợp tá dược, thuộc hệ phân tán một pha hoặc nhiều pha. Tá dược sử dụng có nguồn gốc thiên nhiên hoặc tổng hợp, thân dầu hay thân nước. Ngoài ra, trong thành phần tá dược còn có thêm chất bảo quản, chất chống oxy hóa, chất ổn định, chất nhũ hóa, chất làm thơm và các chất làm tăng tính thấm của dược chất. Phân loại:Thuốc mỡ (ointments) Bột nhão (pastes) Kem (creams) Gel (gels) Yêu cầu chất Iượng chungĐộ đồng nhấtCách thử: Lấy 4 đơn vị đóng gói, mỗi đơn vị khoảng 0,02 g đến 0,03 g, trải đều chế phẩm trên 4 phiến kính. Đậy mỗi phiến kính bằng một phiến kính thứ 2 và ép mạnh cho tới khi tạo thành một vết có đường kính khoảng 2 cm. Quan sát vết thu được bằng mắt thường (cách mắt khoảng 30 cm), ở 3 trong 4 tiêu bản không được nhận thấy các tiểu phân. Nếu có các tiểu phân nhìn thấy ở trong phần lớn số các vết thì phải làm lại với 8 đơn vị đóng gói. Trong số các tiêu bản này, các tiểu phân cho phép nhận thấy không được vượt quá 2 tiêu bản. Độ đồng đều khối lượngĐạt yêu cầu Phép thử độ đồng đều khối lượng (Phụ lục 11.3). Độ nhiễm khuẩnĐạt yêu cầu Phép thử giới hạn nhiễm khuẩn (Phụ lục 13.6). Các yêu cầu kỹ thuật khácThử theo quy định trong chuyên luận riêng. Bảo quảnTrong chai, lọ, tuýp kín chế tạo bằng vật liệu phù hợp (kim loại, polymer). Nếu chế phẩm vô khuẩn, cần bảo quản kín, vô khuẩn. Thuốc mỡĐịnh nghĩaTùy theo cách phối hợp và sử dụng tá dược, thuốc mỡ được chia ra 3 loại: Thuốc mỡ thân dầu Thuốc mỡ thân dầu có thể hút (hấp phụ) một lượng nhỏ nước hoặc dung môi phân cực. Tá dược điển hình gồm: Nhóm hydrocacbon no (vaselin, dầu parafin, parafin rắn), dầu, mỡ có nguồn gốc động vật, glycerid bán tổng hợp, sáp và polyalkylsiloxan lỏng. Thuốc mỡ thân nước Thuốc mỡ thân nước có thể trộn lẫn với nước. Tá dược thường dùng là polyethylen glycol (macrogol, carbowax). Thuốc mỡ nhũ hóa thân nước Thuốc mờ nhũ hỏa thân nước có thể hút được một lượng lớn nước và chất lỏng phân cực để tạo thành nhũ tương nước-dầu (N/D) hoặc dầu-nước (D/N), tùy thuộc vào bản chất chất nhũ hóa có trong thành phần tá dược. Chất nhũ hóa cho nhũ tương N/D gồm: lanolin, estc sorbitan (Span), monoglycerid và alcol béo. Chất nhũ hóa cho nhũ tương D/N gồm: Alcol béo Sulfat, polysorbat (Tween), ether hoặc estc của acid béo với polyethylen glycol. Thuốc mỡ tra mắtThuốc mỡ tra mắt là những chế phẩm thuốc mỡ dùng cho mắt chứa một hoặc nhiều dược chất hòa tan hoặc phân tán trong tá dược, được xếp vào nhóm các chế phẩm vô khuẩn. Tá dươc và dược chất dùng cho thuốc mỡ tra mắt phải không bị phân hủy khi tiệt khuẩn bằng nhiệt. Thử vô khuẩnĐạt yêu cầu Thử vô khuẩn (Phụ lục 13.7) Các phần tử kim loạiCách thử: Trừ trường hợp có chỉ dẫn riêng, lấy 10 tuýp thuốc, bóp hết thuốc chứa bên trong vào từng đĩa Petri riêng có đường kính 6 cm, đáy bằng, không có các vết xước và các phần tử lạ nhìn thấy được. Đậy các đĩa, đun nóng từ 80 °C đến 85 °C trong 2 h và để cho thuốc mỡ phân tán đồng đều. Làm nguội cho thuốc mỡ đông lại, lật ngược mỗi đĩa, đặt lên bản soi của kính hiển vi thích hợp- Chiếu sáng từ trên xuống bằng một đèn chiếu đặt ở góc 45° so với mặt phẳng của bàn soi. Quan sát và đếm các phần tử kim loại sáng bóng, lớn hơn 50 pm ờ bất kỳ kích thước nào. Không được có quá một tuýp trong 10 tuýp thuốc đem thử chứa nhiều hơn 8 phần từ và không được quá 50 phần từ tìm thấy trong 10 tuýp. Nếu chế phẩm không đạt ờ lần thử thứ nhất, làm lại lần thử thứ hai với 20 tuýp thuốc khác. Mẫu thử được coi là đạt yêu cầu nếu không có quá 3 tuýp chứa quá 8 phân từ trong mỗi tuýp và tổng số không quá 150 phân tử trong 30 tuýp thử. Giới hạn kích thước các phần tửTrải một lượng nhỏ chế phẩm thành một lớp mỏng trên bàn soi của kính hiển vi, phủ phiến kính lên trên và soi. Không được có phần tử nào của thuốc có kích thước lớn hơn 75 µm . Bảo quảnTrong lọ, tuýp có nắp hoặc nút kín. Để nơi khô mát, tránh ánh sáng. Bao bì đựng thuốc mỡ tra mắt phải bền ờ nhiệt độ tiệt khuẩn và không ảnh hưởng tới chất lượng của thuốc. Bột nhãoBột nhão bôi da là các chế phẩm nửa rắn, chứa một tỷ lệ lớn dược chất rắn phân tán trong tá dược. KemKem bôi da là những chế phẩm thuộc hệ phân tán nhiều pha, bao gồm: Pha dầu, pha nước và chất nhũ hóa. Kem N/D: Pha nội thân nước, pha ngoại (pha liên tục) thân dầu. Trong thành phần có các chất nhũ hóa tạo nhũ tương N/D như: Lanolin, este sorbitan (Span), monoglycerid và alcol béo. Kem D N: Pha nội thân dầu, pha ngoại (pha hên tục) thân nước. Trong thành phần có các chất nhũ hóa tạo nhũ tương D/N như: Xà phòng kiềm hóa trị một (natri, kali) xà phòng amin (mono, di và triethanolamin), alcol béo sulfat, polysorbat (Tween), ether hoặc este của acid béo với polyethylen glycol.GelGel bôi da và niêm mạc là những chế phẩm thể chất mềm, sử dụng tá dược tạo gel thích hợp. Gel thân dầu (olcogels): Trong thành phần sử dụng tá dược tạo gel, bao gồm dầu parafin phối hợp với tá dược thân dầu khác, có thêm keo silic, xà phòng nhôm hoặc xà phòng kẽm. Gel thân nước (hydrogels): Thành phần bao gồm nước, glycerin, propylen glycol, có thêm các tá dược tạo gel như polysacarid (tinh bột, tinh bột biến tính, acid alginic và natri alginat), dẫn chất cellulose, polymer của acid acrylic (carbomer, carbomer copolymer, carbomer interpolymer, methyl acrylat) và các chất vô cơ (magnesi – nhôm silicat).
VI. THUỐC DẠNG MỀM: Bao gồm kem, gel, thuốc mỡ, thuốc đạn và các dạng bào chế dùng tại chỗ đặc biệt khác. Các công thức thuốc mềm có nhiều thuộc tính chung bao gồm tính nhất quán, tính đồng nhất của liều lượng, chất bảo quản, cácg dùng và công thức nền tảng của chúng. Các sản phẩm dạng thuốc mềm được hình thành thông qua các công thức phức tạp có các yếu tố cấu trúc phức tạp. Thông thường, chúng bao gồm hai pha - dầu và nước - một trong số đó là pha liên tục (bên ngoài), và pha còn lại là pha phân tán (bên trong). Hoạt chất thường được hòa tan trong một pha. Trong trường hợp thuốc không được hòa tan hoàn toàn trong một pha, nó được phân tán trong cả hai pha, do đó tạo ra một hệ thống ba pha. Các sản phẩm được sử dụng tại chỗ qua da được chia thành hai loại chung, một loại cho tác dụng tại chỗ như kem, gel, thuốc mỡ và loại thứ hai là thuốc đặt. a) THUỐC MỠ, CREAM, GEL
Có nhiều cách phân loại các sản phẩm thuốc mềm (thuốc mỡ). Ở một số tài liệu, Dược điển tách riêng các chế phẩm dùng qua da thành từng loại cụ thể, trong đó, thuốc mỡ chỉ là một dạng thuốc dùng theo đường qua da. Chẳng hạn như: Dược điển Mỹ 23 phân loại như sau:
Có thể coi thuốc mềm (thuốc mỡ) là những hệ phân tán đồng thể hoặc dị thể, trong đó chất phân tán là một hoặc hỗn hợp được chất, còn môi trường phân tán là một hoặc hỗn hợp tá dược. Như vậy, có thể phân chia ra:
Theo mục đích sử dụng và điều trị :
b) THUỐC ĐẶT, VIÊN NOÃN
Thuốc đặt là một dạng thuốc phân liều dùng để đặt vào các hốc tự nhiên của cơ thể nhằm gây ra tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân. Thuốc đặt tồn tại ở thể rắn tại nhiệt độ thường và chảy lỏng ở thân nhiệt hoặc hòa tan trong niêm dịch khi được đưa vào vị trí đặt trong cơ thể. Tùy thuộc vào vị trí đặt thuốc mà thuốc đặt được phân ra làm 3 loại: thuốc đạn (đặt tại trực tràng), viên noãn (đặt tại âm đạo), thuốc bút chì (đặt tại niệu đạo hoặc các hốc nhỏ hơn). Mỗi loại thuốc đều đa dạng về hình dạng, kích thước và khối lượng như: thuốc hình trụ, hình thủy lôi, hình cầu, hình trứng, … trong đó thuốc đạn hình thủy lôi hay được sử dụng nhất do nó dễ đặt đồng thời sau khi đặt, thuốc khó lọt ra ngoài. Viên noãn và thuốc bút chì chủ yếu để gây tác dụng tại chỗ còn thuốc đạn có thể sử dụng để gây tác dụng điều trị tại chỗ hoặc toàn thân. ƯU ĐIỂM:
NHƯỢC ĐIỂM:
***Bài viết được tổng hợp từ Wiki, Sách Kỹ Thuật Bào Chế Sinh Dược Phẩm của Bộ Y Tế và một số nguồn tin đáng tin cậy khác |