Phenomenology research là gì

Gửi các bạn sinh viên cao học của tôiMấy từ tôi mới viết ra là những từ mà một sinh viên cao học nào [well, ít ra trong lãnh vực social sciences and humanities] cũng sẽ gặp khi đọc tài liệu bằng tiếng Anh về phương pháp nghiên cứu khoa học. Nó cũng là những từ mà GS Fran Hoffmann đưa vào list vocabulary mà bà ấy dạy cho lớp Nghiên cứu khoa học mà tôi đang tổ chức tại ĐHQG.Và chắc chắn là những từ này rất là threatening đối với sinh viên! Nên để cho nó student-friendly [!], trước hết là phải dịch nó ra tiếng Việt. Vây thì đây, dịch theo những cái tôi đã biết [cũng chẳng rõ học từ đâu, vì đa số là tự học mà!]:

Ontology = bản thể luận; Epistemology = nhận thức luận [có nơi gọi là khoa học luận]Methodology = phương pháp luậnPhenomenology = hiện tượng học

Research paradigm = mô thức nghiên cứu

Nhưng tất nhiên dịch xong thì ... vẫn như không, vì vẫn chưa hiểu những bản thể luận, nhận thức luận, hiện tượng học, mô thức nghiên cứu ấy nó là cái gì. Vậy thì xin đọc bằng tiếng Anh tại đây.

Link: //www.ul.edu.lb/fthm/papers/3rd%20Axis/Methodology%20greece.doc

Nếu vẫn không hiểu, có thể đọc bằng tiếng Việt, đã được viết cho người bình dân [!], ở đây. Link: //bshohai.blogspot.com/2009/12/noi-chuyen-triet-hoc-cua-nguoi-ngoai-ao_12.html

Còn dưới đây thì xin cung cấp thêm một vài phần trích dịch từ bài viết bằng tiếng Anh mà tôi cho là đã rất rõ ràng dễ hiểu lắm rồi, nếu không hiểu có lẽ là do nhai chưa kỹ, cố gắng nhai rồi sẽ thấy nó ngon các bạn ạ!Đây:

Abstract

There is a great number of issues related to the philosophical design and methodological approach that the researcher has to take into consideration beginning a research [...]. The nature of reality and the nature of knowledge have significant impacts in the research design. Such philosophical issues need to be addressed explicitly since they shape the choice of research instruments.

Tóm tắt
Có khá nhiều vấn đề liên quan đến khía cạnh triết lý của thiết kế và cách tiếp cận về phương pháp luận mà một nhà nghiên cứu cần phải quan tâm trước khi bắt đầu một đề tài nghiên cứu [...]. Bản chất của hiện thực và bản chất của tri thức có ảnh hưởng lớn đến thiết kế nghiên cứu. Những vấn đề triết học như vậy cần được đề cập đến một cách tường minh vì chúng sẽ quyết định việc lựa chọn công cụ nghiên cứu.

[đọc xong, chẳng hiểu gì hết phải không các bạn?]Vậy thì tiếp nữa:

According to Denzin and Lincoln [1994], paradigm is the basic set of beliefs that guide action that can be viewed as consisting of three main elements: ontology, epistemology and methodology.

Theo Denzin và Lincoln [1994], mô thức là một bộ các niềm tin hướng dẫn hành động mà ta có thể xem là bao gồm 3 yếu tố: bản thể luận, nhận thức luận, và phương pháp luận.

Epistemology refers to the question of how we know the world. It looks at the relationship between the inquirer and what can be known by direct observation at the external world to uncover knowledge or when the observer and the subject of inquiry must interact to create knowledge.

Nhận thức luận nói về việc chúng ta hiểu biết thế giới này bằng cách nào. Nó nhìn vào mối liên hệ giữa người nghiên cứu và cái mà người đó có thể biết được thông qua quan sát trực tiếp thế giới bên ngoài để khám phá ra tri thức, hay khi người quan sát phải tương tác với khách thể nghiên cứu để tạo ra tri thức.

[Phần trên là dịch chữ, word-for-word translation, khó hiểu quá phải không. Xin dịch lại ra ngôn ngữ bình dân cho dễ hiểu: Nhận thức luận là một quan điểm giúp ta trả lời câu hỏi "làm sao mình biết được điều đó?". Có phải chỉ cần quan sát rồi sẽ biết, hay là phải tương tác với nó rồi mới biết?

Chẳng hạn, để trả lời câu hỏi "anh ấy có yêu mình không?", có cô gái sẽ tin rằng "cứ chờ xem đến ngày sinh nhật của mình anh ấy có tặng hoa không, đi chơi chung anh ấy có trả tiền không, anh ấy có chiều mình không" là biết ngay. Còn có cô thì tin rằng những cái ấy chỉ là làm màu mà thôi, chưa thể biết được, phải "sống lâu mới biết đêm dài"! Đại khái thế.]

Tạm thời thế. Sẽ viết tiếp cho các bạn sau nhé, bây giờ bắt đọc nữa chắc là hết "dzô" rồi!--Viết tiếp một chút:Về từ paradigm, nếu dịch là "mô thức" thì có lẽ chưa tốt lắm [các bạn xem comment của BS Hồ Hải bên dưới], nên có lẽ sẽ nghĩ lại. Một từ khác đã được dùng để dịch paradigm là hệ thuyết; từ này có vẻ rõ nghĩa hơn [hệ thuyết = hệ thống lý thuyết], nhưng "hệ thuyết nghiên cứu" nghe "hàn lâm, kinh viện", tối tăm quá. Tôi đang nghĩ đến từ "trường phái nghiên cứu", không biết dùng ở đây có phù hợp không [trong tiếng Anh, "trường phái" được dịch là "school"].

Sẽ nghĩ thêm. Chân lý là một cuộc hành trình bất tận. Nên cô PA viết sách mãi có bao giờ xong đâu ;-]. Công trình nào cũng thành Cầu Giần Xây hết [tức là xây dần dần ấy các bạn ạ - cái này là ông xã tôi nói đấy!]

Page 2


Nhận thức về các nguyên lý chú chốt của Triết học Heidegger
trong nghiên cứu hiện tượng
học diễn giải*

[I] Marcella Horrigan-Kelly, Michelle Millar và Maura Dowling

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt: Hiện tượng học của Martin Heidegger cung cấp hướng dẫn phương pháp cho các nhà nghiên cứu định tính tìm cách giải thích kinh nghiệm sống của những người tham gia nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu hiện tượng học ứng dụng triết học của ông một cách lỏng lẻo. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì triết học hiện tượng học của Heidegger đang thách thức và tác động ảnh hưởng đến việc định hình hành vi nghiên cứu hiện tượng học diễn giải và vẫn còn được tranh luận rộng rãi. Bài viết này trình bày một khám phá về Dasein, một nguyên lý chủ chốt của hiện tượng học diễn giải Martin Heidegger,phát triển tính hữu dụng của nó đối với nghiên cứu hiện tượng học. Từ quan điểm này, chúng tôi trình bày hướng dẫn cho các nhà nghiên cứu lập kế hoạch sử dụng triết học của Heidegger làm nền tảng cho nghiên cứu của họ.

Những điều đã biết: Ảnh hưởng của triết học Heidegger trong việc định hình hành vi nghiên cứu hiện tượng học diễn giải được tranh luận rộng rãi thông thường liên quan đến việc sử dụng triết học của ông một cách lỏng lẻo trong nghiên cứu.


Những bổ sung
của bài viết này: Bài viết này thảo luận về cách thức mà khung lý thuyết sử dụng các nguyên lý hiện tượng học chủ chốt của Heidegger như kinh nghiệm sống, tính thông thường hàng ngày, Dasein, hiện hữu tại thế, các cuộc chạm trán với các thực thể, thời tính và cấu trúc xao xuyến [Angst], có thể được sử dụng để phơi bày ý nghĩa của tốn tại thông thường hàng ngày của con người như là một phần của việc tiến hành nghiên cứu hiện tượng học diễn giải.


Bối cảnh: Martin Heidegger, tuyệt tác, Hữu thể và Thời gian [1927/2011] thể hiện trung tâm điểm hữu thể luận của ông trong việc khám phá ý nghĩa của hiện hữu [Dreyfus & Wrathall, 2007]. Tuy nhiên, luận thuyết triết học của ông được coi là cực kỳ khó hiểu [Cerbone, 2009; Dreyfus & Wrathall, 2007; Sheehan, 1998]. Bất chấp những thách thức vốn có của việc nhận thức các tác phẩm triết học của Heidegger, ảnh hưởng của ông trong việc định hình nghiên cứu hiện tượng học diễn giải là không thể chối cãi và được sử dụng rộng rãi [Benner, 1984, 1985, 1994; Benner & Wrubel, 1989; Churchill, 2002; Diekelmann & Ironside, 1998; Garza, 2007 King và cộng sự, 2008; Taylor, 1995; Todres, 2007; Walters, 1995]. Điều bắt buộc trong việc nhận thức và phản ánh về cách thức mà các nguyên lý trung tâm của Heidegger hình thành nên phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu hiện tượng học giải thích cũng đã được tranh luận sôi nổi [Crotty, 1997; Holmes, 1996; Paley, 1998, 2005]. Người ta cho rằng về bản chất thì mục đích của triết học Heidegger không nhất thiết là phải phát triển một phương pháp nghiên cứu [Crotty, 1997; Holmes, 1996; Paley, 1998, 2005]. Mặc dù, phê bình này là hợp lý, nhưng các nguyên lý triết học của Heidegger đã mở đường cho sự phát triển của các phương pháp nghiên cứu hiện tượng học diễn giải, tạo điều kiện cho giải thích nhận thức về kinh nghiệm sống của con người [Benner, 1994; Caelli, 2001; Eatough & Smith, 2006; Friesen , Henrikson, & Saevi, 2012; King và cộng sự, 2008; Koch, 1996, 1999; Omery, 1983; Rae, 2000; Rae & Carswell, 2000; Van Manen, 1997]. Vì vậy, bài viết này trước hết xuất trình một giải thích ngắn gọn về các nguyên lý then chốt của Heidegger được trình bày trong tác phẩm Hữu thể và Thời gian [1927/2011] của ông,sau đó xem xét việc ứng dụng các nguyên lý liên quan đến phương pháp nghiên cứu hiện tượng học diễn giải.

Phát triển Hiện tượng học Diễn giải của Heidegger

Martin Heidegger [1889–1976] ban đầu là sinh viên của Edmund Husserl [1909–1911] và sau đó là trợ lý của ông tại Đại học Freiburg [1919–1923] và được xem là “trụ cột trí tuệ” kế thừa trong trào lưu hiện tượng học theo sau Husserl [Dowling, 2011; Healy, 2011]. Tác phẩm Hữu thể và Thời gian [Heidegger, 1927] của ông đã thách thức các quan niệm hiện tượng học Husserlien hiện tại, khi cho rằng các quan niệm đó chủ yếu mang tính mô tả, tán thành các cấu trúc thiết yếu của ý thức. Do đó Heidegger đã chủ trương các quan niệm về hiện tượng học của mình như là một loại diễn giải về kinh nghiệm và phát triển “ý nghĩa của hiện hữu” [Cerbone, 2009; Dreyfus & Wrathall, 2007; Healy, 2011; McConnell-Henry, Chapman, & Francis, 2009; Moran, 2000]. Heidegger bác bỏ quan niệm về con người/ chủ thể với tư cách một người nhìn các đối tượng để tán đồng rằng cả chủ thể và đối tượng đều không thể tách rời. Vì vậy, đối với Heidegger, “hiện hữu” là những mô tả hoặc lý giải mà “Dasein” [hiện hữu ở đó hoặc tồn tại người] được cung cấp cho sự sống thường ngày hoặc sự tồn tại bình thường của họ [Heidegger, 1927/2011, trang 38]. Do đó, Heidegger phải trả lời câu hỏi từ một quan điểm triết học “hiện hữu nghĩa là gì?" [Heidegger, 1927/2011].

Một nguyên lý trung tâm của triết học Heidegger thừa nhận sự tồn tại là “hiện hữu tại thế”, được hiểu là tính gắn kết và không thể tách rời khỏi thế giới này [Cerbone, 2009; Dreyfus & Wrathall, 2007; Heidegger, 1927/2011; Moran, 2000]. Từ quan điểm đó, Heidegger đã bác bỏ phương pháp quy giản hiện tượng học của Husserl và quan điểm về cái transzendentale ego - bản ngã siêu việt của ông [Cerbone, 2009; Dreyfus & Wrathall, 2007; Heidegger, 1927/2011].

Heidegger đưa ra một loạt các nguyên lý then chốt trong triết học hiện tượng học của ông. Những nguyên lý này bao gồm khái niệm hiện hữu, hiện hữu tại thế, các cuộc chạm trán với các thực thể trong thế giới, hiện hữu với, thời gian tính, không gian tính và cấu trúc xao xuyến. Bài viết này sẽ tập trung trình bày quan niệm của ông về Dasein.

Khái niệm Dasein của Heidegger

Khái niệm hiện hữu của Heidegger liên quan đến việc xuất trình câu hỏi về hiện hữu đã cho thấy một thách thức lớn đối với các nhà triết học trước đây bằng cách thách thức khái niệm hiện hữu như là một nhị nguyên luận. Thách thức nhị nguyên luận Descartes của ông đặc biệt rõ ràng trong phê phán hiện tượng học của Husserl bằng cách bác bỏ quan niệm về con người [chủ thể] như một khán giả với các đối tượng khi cố súy rằng cả chủ thể và khách thể đều không thể tách rời [Heidegger, 1927/2011]. Khi trình bày hiện hữu là không thể tách rời, Heidegger đã giới thiệu khái niệm Dasein.

Heidegger đã giới thiệu khái niệm Dasein phản ánh quan niệm về một “hiện hữu sống động” thông qua hoạt động họ là “hiện hữu ở đó” và hiện hữu tại thế [Cerbone, 2009; Heidegger, 1927/2011]. Hoạt động trung tâm của Dasein là truy vấn hiện hữu và đặc biệt là khả năng của họ trong việc đặt vấn đề và tập trung vào sự tồn tại cá nhân [Heidegger, 1927/2011]. Do đó, Heidegger đưa ra luận đề rằng “việc nhận thức Hữu thể [Being] tự thân là một đặc trưng tối hậu của Hữu thể của Dasein” khi trình bày Dasein là “đặc biệt về mặt hữu thể luận, ở chỗ nó mang tính hữu thể luận” [Heidegger, 1927/2011, trang 32].

Để tạo ra sự khác biệt mang tính hữu thể luận này, Heidegger mô tả Dasein là một thực thể có hiểu biết về Hữu thể và khả năng của chính họ. Do đó, Heidegger chủ trương đặt trần trụi một cấu trúc nền tảng của Dasein” với tư cách là hiện hữu tại thế bằng cách khám phá “tính chuẩn thường hằng ngày[Heidegger, 1927/2011, trang 65].

Khi khám phá cấu trúc nền tảng Hữu thể của Dasein, có nghĩa là, hiện hữu tại thế, Heidegger nhấn mạnh rằng hiện tượng này [hiện hữu tại thế] là đơn nhất và phải được xem như một tổng thể [Heidegger, 1927/2011, trang 79]. Khi trình bày “tính trần thế của thế giới, Heidegger phê phán khái niệm quy giản của Husserl, tức là, nỗ lực khám phá ý thức tách rời khỏi cái thế giới mà kẻ đó được đặt định. Thay vào đó, Heidegger đưa ra lập luận rằng nhận thức đạt được thông qua hoạt động trần thế. Heidegger lập luận rằng nhận thức về hiện hữu của Dasein về sự hiện hữu của các thực thể khác gặp phải thông qua các tương tác chuẩn thường hàng ngày được sử dụng làm xuất phát điểm trong việc truy vấn hiện hữu Dasein [Cerbone, 2009; Heidegger, 1927/2011].

Heidegger trình bày thế giới trong hai bối cảnh: một là bối cảnh chunghai là bối cảnh của thế giới chủ thể. Do đó, ông mô tả tính trần thế hiện tượng của thế giới như tính kết nối giữa các thế giới xác định này. Do đó, Heidegger đã phát triển phép phân tích về Dasein thông qua cuộc chạm trán của họ với các thực thể tại thế.

Để vận hành cuộc thăm dò này, Heidegger đã giới thiệu khái niệm thiết bị như một phương tiện để phân biệt các thực thể mà Dasein chạm trán trong thế giới này khỏi “những gì thuần sự vật”. Heidegger nhấn mạnh rằng để một thực thể được coi là hữu ích “trong tầm tay thì trước hết thực thể đó phải được hiểu là hiện có trong tay. Hoạt động của Dasein, trong khi dường như là một hành động vô thức lại không ngụ ý tính không hiểu được mà là làm nổi bật phương cách các khía cạnh của sự tham gia hàng ngày của Dasein với thế giới không được diễn đạt bằng lý thuyết. Do đó, Heidegger đã thách thức các loại nhận thức siêu hình về Hữu thể đề xuất rằng những hoạt động không được chú ý này xuất trình một cấu trúc phân loại hữu thể học phong phú đã bị triết học phương Tây bỏ lỡ [Cerbone, 2009, p. 38].

Heidegger từ phương diện phân tích này đã bộc lộ những cuộc chạm trán của Dasein với các thực thể là “trong tầm tay trên thế giới này. Giờ đây dự án này đã làm bộc lộ cái “ai” đang của hiện hữu tại thế bằng cách bộc lộ phép phân tích về Dasein thông qua các cuộc chạm trán với những “kẻ khác, những kẻ khác này hiện hữu là Dasein khác. Khi khám phá cái thực thể là “cái ai” tại thế, Heidegger đã khám phá cái “tự ngã” liên quan đến sự tồn tại chuẩn thường hàng ngày thông qua sự tương tác với những kẻ khác. Do đó, Heidegger cho rằng để tiếp tục việc phân tích Dasein, người ta phải khám phá ra hiện hữu tại thế trong bối cảnh “hiện hữu ống với những kẻ khác [Heidegger, 1927/2011].

Trong sự tồn tại hàng ngày này, Heidegger đã đưa ra cấu trúc của “hiện hữu với, đó là sự tồn tại của Dasein không phải là “hiện hữu một mình mà là với thế giới”, có nghĩa là hiện hữu với những kẻ khác [Heidegger, 1927/2011, trang 152].

Heidegger đã mô tả sự tồn tại của Dasein về phương diện hiện hữu với đã bị ảnh hưởng và định hình bởi cái “họ [das Man] [Heidegger, 1927/2011]. Bằng cái họ [das Man], Heidegger trình bày một thực thể phi cá nhân phản ánh cái mà Dasein xem là thực tại xã hội của họ được nhận thức bởi những cuộc chạm trán với thiết bị [những vật hữu ích trong tầm tay], thiên nhiên và những kẻ khác [Dasein khác]. Heidegger lập luận rằng trong việc khảo sát cái ai tại thế, điều đầu tiên phải được khám phá là sự tồn tại của Dasein với những kẻ khác [Heidegger, 1927/2011, trang 155]. Tuy nhiên, trong việc sử dụng thuật ngữ những kẻ khác, Heidegger không có ý định là mọi người khác ngoại trừ Dasein, phản ánh việc đồng nhất Dasein với những kẻ khác có đặc điểm, niềm tin, chuẩn mực và giá trị tương tự. Heidegger cho rằng Dasein trong hiện hữu với những kẻ khác giả định một vai trò thụ động trong việc chấp nhận mà không đặt câu hỏi về các chuẩn mực tập thể và giá trị của cái họ [das Man]. Sự tồn tại ông đặt định này đã miễn cho Dasein khỏi trách nhiệm cá nhân, việc ra quyết định và lựa chọn [Heidegger, 1927/2011]. Trong vai trò thụ động này, Heidegger mô tả sự tồn tại như là hiện hữu không chân xác hoặc sa ngã. Bằng sự tồn tại không chân xác, Heidegger đã trình bày Dasein như một thực thể phù hợp với các chuẩn mực và giá trị xã hội, vì vậy mà đánh mất cá tính. Khi trình bày sự thay thế cho loại tồn tại không chân xác, Heidegger thể hiện sự tồn tại đích thực bằng cách bộc lộ bản ngã đích thực của Dasein.

Bằng cách trình bày sự tồn tại của Dasein với tư cách là có hai phương thức, đó là tính chân xác và không chân xác, Heidegger đã vạch rõ những khác biệt giữa khái niệm cái “tự họ” có nghĩa là [cái không phải của tôi mà một phần là của cái họ [das Man] và “tự tính” hoặc “tnhận thức” là cái của tôi]. Mặc dù, trong khi Heidegger đã tạo ra những phân biệt này, ông vẫn rất muốn thừa nhận phương thức tồn tại này không ưa thích phương thức kia. Thay vào đó, cả hai phương thức tồn tại đều cho thấy sự tồn tại trong bối cảnh hiện hữu tại thế thông qua các cuộc chạm trán với các thực thể, thiên nhiên và những kẻ khác. Do đó, về phương diện phân tích này, Heidegger đã bộc lộ hiện hữu tại thế của Dasein như được thể hiện bằng các quá trình quan hệ của “Hiện hữu cùng với thế giới [Mối quan tâm dè dặt của Dasein đối với các thực thể], Hiện hữu với những kẻ khác, và cái ai tại thế [Heidegger, 1927/2011, trang 169]. Heidegger tiếp tục phân tích Dasein để diễn giải một nhận thức nguyên ủy hơn về hiện hữu tại thế từ quan điểm về hiện hữu ở đó của Dasein trên thế giới này.

___________________________________

Ghi chú: * Horrigan-Kelly, Marcella; Michelle Millar; and Maura Dowling [2016]. Understanding the Key Tenets of Heidegger’s Philosophy for Interpretive Phenomenological Research. International Journal of Qualitative Methods, January-December 2016, pp. 1–8.

References

Benner, P. [1984]. From novice to expert: Excellence and power in clinical nursing practice. Menlo Park, CA: Addison-Wesley.

Benner, P. [1985]. Quality of life: A phenomenological perspective on explanation, prediction, and understanding in nursing science. Advances in Nursing Science, 8, 1–14.

Benner, P. [1994]. The tradition and skill in interpretive phenomenology in studying health, illness and caring practices. In P. Benner [Ed.], Interpretive phenomenology [pp. 99–128]. Thousand Oaks, CA: Sage.

Benner, P., & Wrubel, J. [1989]. The primacy of caring, stress and coping in health and illness. Menlo Park, CA: Addison-Wesley.

Berglund, M. M. U. [2014]. Learning turning points-in life with long-term illness-visualized with the help of the life-world philosophy. International Journal of Qualitative Studies on Health and Well-being, 9, 1–10.

Caelli, K. [2001]. Engaging with phenomenology: Is it more of a challenge than it needs to be? Qualitative Health Research, 11, 273–281.

Cash, K. [1995]. Benner and expertise in nursing: A critique. International Journal of Nursing Studies, 32, 527–534.

Cerbone, D. R. [2009]. Heidegger: A guide for the perplexed [2nd ed.]. London, England: Continuum International Publishing Group.

Churchill, S. D. [2002]. Stories of experience and the experience of stories: Narrative psychology, phenomenology, and the postmodern challenge. Constructivism in the Human Sciences, 7, 81–93.

Clancy, M. [2013]. Is reflexivity the key to minimising problems of interpretation in phenomenological research? Nurse Researcher, 20, 12–16.

Conway, S. A. [2003]. A pathway for interpretive phenomenology. International Journal of Qualitative Methods, 2. Article 4. Retrieved March 18, 2016, from //www.ualberta.ca/*iiqm/backissues/2_3final/pdf/conroy.pdf

Creswell,J.W.[2007]. Qualitative inquiry and research design: Choosing among five approaches. Thousand Oaks, CA: Sage.

Crist, J. D., & Tanner, C. A. [2003]. Interpretation/analysis methods in hermeneutic interpretive phenomenology. Nursing Research, 52, 202–205.

Crotty, M. [1997]. Tradition and culture in Heidegger’s Being and Time. Nursing Inquiry, 4, 88–98.

Crowther, S., Smythe, E., & Spence, D. [2015]. Kairos time at the moment of birth. Midwifery, 31, 451–457.

Dahlberg, K., Dahlberg, H., & Nystrom, M. [2008] Reflective life-world research [2nd ed.]. Lund, Sweden: Studentlitteratur.

Diekelmann, N. L., Allen, D., & Tanner, C. [1989]. The NLN criteria of appraisal of baccalaureate programs: A critical hermeneutic analysis. New York, NY: National League for Nursing Press.

Diekelmann, N. L., & Ironside, P. [1998]. Preserving writing in doctoral education: Exploring the concernful practices of schooling learning teaching. Journal of Advanced Nursing, 28, 1347–1355.

Dowling, M. [2011]. Phenomenological research approaches: Mapping the terrain of competing perspectives. In G. Thompson, F. Dykes, & S. Downe [Eds.], Qualitative research in midwifery and childbirth: Phenomenological approaches [pp. 55–78]. London, England: Routledge.

Dreyfus, H. L., & Wrathall, M. A. [Eds.]. [2007]. A companion to Heidegger [2nd ed.]. Oxford, England: Blackwell Publishing Limited.

Eatough, V., & Smith, J. [2006]. ‘‘I was like a wild wild person’’: Understanding feelings of anger using interpretative phenomenological analysis. British Journal of Psychology, 97, 483–498.

Ezzy, D. [2002]. Qualitative analysis: Practice and innovation. St Leonards, New South Wales: Allen & Unwin.

Finlay, L. [2008]. A dance between the reduction and reflexivity: Explicating the ‘‘phenomenological psychological attitude’’. Journal of Phenomenological Psychology, 39, 1–32.

Friesen, N., Henrikson, C., & Saevi, T. [Eds.]. [2012]. Hermeneutic phenomenology in education: Method and practice. Rotherdam, the Netherlands: Sense Publishers.

Gadamer, H. G. [1975]. Philosophical hermeneutics. Berkeley, CA: University of California Press.

Garza, G. [2007]. Varieties of phenomenological research at the University of Dallas: An emerging typology. Qualitative Research in Psychology, 4, 313–342.

Guignon, C. [2009]. Becoming a person: Hermeneutic phenomenology’s contribution. New Ideas in Psychology, 30, 97–106.

Healy, M. [2011]. ‘Heidegger’s contribution to hermeneutic phenomenological research’. In G. Thompson, F. Dykes, & S. Downe [Eds.], Qualitative research in midwifery and childbirth: Phenomenological approaches [pp. 215–232]. London, England: Routledge.

Heidegger, M. [1927/2011]. Being and Time [J. Macquarrie & E. Robinson, Trans.]. New York, NY: Harper & Row.

Holmes, C. [1996]. The politics of phenomenological concepts in nursing. Journal of Advanced Nursing, 24, 579–587.

Horrigan-Kelly, M. [2015]. Exploring the views and experiences of teenage parents as service users of universal child and family health care services. Unpublished thesis. Retrieved from //hdl.handle.net/10379/5105

Horrocks, S. [2000]. Hunting for Heidegger: Questioning the sources in the Benner/Cash debate. International Journal of Nursing Studies, 37, 237–243.

Jack, K., & Wibberley, C. [2014]. The meaning of emotion work to student nurses: A Heideggerian analysis. International Journal of Nursing Studies, 51, 900–907.

King, N., Finlay, L., Ashworth, P., Smith, J. A., Langdridge, D., & Butt, T. [2008]. ‘‘Can’t really trust that, so what can I trust?’’: A polyvocal, qualitative analysis of the psychology of mistrust. Qualitative Research in Psychology, 5, 80–102.

Koch, T. [1996]. Implementation of a hermeneutic inquiry in nursing: Philosophy, rigour and representation. Journal of Advanced Nursing, 24, 174–184.

Koch, T. [1999]. An interpretive research process: Revisiting phenomenological and hermeneutical approaches. Nurse Researcher, 6, 20–34.

McConnell-Henry, T., Chapman, Y., & Francis, K. [2009]. Husserl and Heidegger: Exploring the disparity. International Journal of Nursing Practice, 15, 7–15.

Moran, D. [2000]. Introduction to phenomenology. London, England: Routledge.

Natanson, M. [Ed.]. [1973]. Phenomenology and the social sciences, in phenomenology and the social sciences [Vol. 1]. Evanston, IL: Northwestern University Press.

Omery, A. [1983]. Phenomenology: A method for nursing research. Advances in Nursing Science, 5, 49–63.

Paley, J. [1998]. Misinterpretive phenomenology: Heidegger, ontology and nursing research. Journal of Advanced Nursing, 27, 817–824.

Paley, J. [2005]. Phenomenology as rhetoric. Nursing Inquiry, 12, 106–116.

Pascal, J. [2010]. Phenomenology as a research method for social work contexts: Understanding the lived experience of cancer survival. New Scholarship in the Human Services, 9, 2–21.

Rae, D. [2000]. Understanding entrepreneurial learning: A question of how? International Journal of Entrepreneurial Behaviour and Research, 6, 145–159.

Rae, D., & Carswell, M. [2000]. Using a life-story approach in researching entrepreneurial learning: The development of a conceptual model and its implications in the design of learning experiences. Education and Training, 42, 220–227.

Ricoeur, P. [1976]. Interpretation theory: Discourse and the surplus of meaning. Fort Worth, TX: Christian University Press.

Sheehan, T. [1998]. Martin Heidegger. In E. Craig [Ed.], Routledge encyclopedia of philosophy [Vol. 4, pp. 307–323]. New York, NY: Routledge.

Smith, J. A., Flowers, P., & Larkin, M. [2009]. Interpretative phenomenological analysis. Theory, method and research . Los Angeles, CA: Sage.

Taylor, B. [1995]. Interpreting phenomenology for nursing research. Nurse Researcher, 3, 66–79.

Todres, L. [2007]. Embodied enquiry: Phenomenological touchstones for research, psychotherapy and spirituality. NewYork,NY: Palgrave Macmillan.

van Manen, M. [1997]. Researching the lived experience: Human science for an action sensitive pedagogy [2nd ed.]. Ontario, Canada: Althouse Press.

Walters, A. [1995]. The phenomenological movement: implications for nursing research. Journal of Advanced Nursing, 22, 791–799.

Wilson, A. [2014]. Being a practitioner: An application of Heidegger’s phenomenology.

Nurse Researcher, 21, 28–33.

Wilson, A. [2015]. New roles and challenges within the healthcare workforce: A Heideggerian perspective. Journal of Health, Organisation and Management, 29, 2–9. International Journal of Qualitative Methods

Page 2

Video liên quan

Chủ Đề