Rèn luyện phong cách sinh hoạt

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên gắn với 5 đức tính cán bộ Kiểm sát nhân dân nhân kỷ niệm 58 năm ngày thành lập Ngành kiểm sát nhân dân

1. Phong cách và tác phong là gì?

Phong cách và tác phong là hai khái niệm thường đi đôi với nhau. Phong cách hàm nghĩa rộng hơn, thể hiện những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm người, được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái riêng của họ, phân biệt họ với những người khác. Phong cách hình thành trên cơ sở những yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất Tác phong hàm nghĩa cụ thể hơn so với phong cách. Có thể hiểu tác phong là sự thể hiện ra bên ngoài của phong cách, tạo thành lề lối làm việc, thói quen ứng xử, nề nếp sinh hoạt... Sau đây, trong chuyên đề chúng ta sẽ sử dụng nhất quán khái niệm phong cách Hồ Chí Minh với cả hai hàm nghĩa của phong cách và tác phong; sử dụng khái niệm phong cách làm việc và phong cách lãnh đạo để nói về phong cách, tác phong công tác trong công việc và trong lãnh đạo, điều hành đất nước.

Phong cách làm việc và phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng của Người, gắn liền với tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục đích sống của Người; vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực; thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.

Có thể nói một cách rất khái quát về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, đó là lề lối, cung cách, cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương, thể hiện trong hoạt động lãnh đạo của Người với những đặc điểm quan trọng như: phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là những bài học quý báu đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương số 04-NQ/TW về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

2. Năm đức tính mà Bác Hồ dạy cán bộ Kiểm sát và cán bộ Kiểm sát cần phải thực hiện khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ

Bác Hồ dạy Ngành kiểm sát là Cán bộ kiểm sát phải Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn. Theo đó:

- Để Công minh đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát phải công bằng, sáng suốt trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Khi giải quyết công việc, cán bộ Kiểm sát phải công bằng, rõ ràng, không thiên vị, mờ ám; không vì yêu, ghét, vì tình riêng làm ảnh hưởng đến công việc, đến lợi ích chung; phải sáng suốt để phân biệt rõ đúng sai, mọi quyết định được đưa ra đều phải trên cơ sở thực tiễn và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng quy định về quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định và theo luật định.

- Tiếp đến Chính trực là phẩm chất quan trọng của người cán bộ Kiểm sát, chính trực tức là có tính ngay thẳng, trung thực, tuân thủ khách quan. Trong quá trình giải quyết công việc, tính ngay thẳng đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, không vụ lợi, không vì tiền hoặc các lợi ích khác mà làm sai sự thật.

Cho nên, Công minh và chính trực là hai phẩm chất chính trị, đạo đức quan trọng nhất của người cán bộ Kiểm sát. Người cán bộ Kiểm sát phải là người chính trực, ngay thẳng vì nếu không là người chính trực, ngay thẳng thì không thể giải quyết công việc một cách công bằng, sáng suốt được.

- Còn Khách quan là phương pháp làm việc theo đó người cán bộ Kiểm sát khi nhìn nhận, xem xét sự việc, hiện tượng phải xuất phát từ thực tế, toàn diện, có tư duy khách quan, không dựa vào suy đoán chủ quan của bản thân mình mà phải có căn cứ khoa học, căn cứ pháp lý để tìm ra sự thật, tìm ra bản chất của sự việc. Trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, cán bộ Kiểm sát phải tôn trọng sự thật khách quan, không chủ quan duy ý chí; từ đó mới có thể giải quyết một cách khách quan, toàn diện các vấn đề theo đúng quy định của pháp luật. Để làm được việc đó người cán bộ Kiểm sát phải công minh, chính trực, có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, không vì lợi ích cá nhân mà làm sai lệch sự việc.

- Từ đó, xuất phát từ tính chất quyết liệt, gay go, phức tạp của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đòi hỏi người cán bộ Kiểm sát phải thận trọng trong giải quyết công việc, trong cử chỉ, hành động, lời nói. Người cán bộ Kiểm sát khi xem xét một vấn đề nào đó phải xem xét, cân nhắc ở nhiều khía cạnh, nhiều mặt khác nhau và phải đặt trong những hoàn cảnh cụ thể để giải quyết. Việc giải quyết, xử lý công việc của cán bộ Kiểm sát thường liên quan đến tội phạm, hình phạt, đến quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp, thậm chí là tính mạng của con người do đó mà tính thận trọng là vô cùng cần thiết. Ngoài ra, thận trọng còn thể hiện lương tâm, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ Kiểm sát đối với công việc được giao.

Cho nên, Thận trọng và khách quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở thận trọng suy tính, đắn đo, điều tra, phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng thì mới có thể xử lý công việc một cách khách quan, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, phát biểu đề ý kiến về nội dung giải quyết vụ án khách quan, toàn diện. Trong giải quyết công việc, người cán bộ Kiểm sát phải có tâm trong sáng, có bản lĩnh vững vàng, giải quyết công việc có lý, có tình và chỉ tuân theo pháp luật, không bị sa ngã và không chịu sức ép của bất kỳ thế lực nào.

- Và Khiêm tốn là đức tính theo đó người cán bộ Kiểm sát phải có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người. Khiêm tốn thể hiện ở thái độ cầu thị, cầu tiến bộ, không hách dịch, cửa quyền, khiêm tốn học hỏi.v.v. Trong quan hệ với đồng nghiệp, với các cơ quan hữu quan và với nhân dân, chỉ có khiêm tốn mới có được sự gần gũi, sự ủng hộ, mới dành được sự hợp tác, giúp đỡ một cách tích cực. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay, người cán bộ Kiểm sát dù có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi đến đâu cũng cần phải có sự phối hợp giúp đỡ của đồng nghiệp, các cơ quan hữu quan và nhân dân. Sự phối hợp, giúp đỡ này sẽ không thể có hiệu quả thiết thực nếu cán bộ Kiểm sát thiếu đức tính khiêm tốn. Như vậy, khiêm tốn học hỏi, thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là một đòi hỏi khách quan trong tình hình đất nước ta đã và đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, thực tế đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều các loại vi phạm, tội phạm hết sức đa dạng và phức tạp.

Bởi vậy, rèn luyện 5 đức tính "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn" gắn với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên trong ngành Kiểm sát là vô cùng quan trọng. Năm đức tính nói trên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, không được coi nhẹ đức tính này, nặng đức tính kia vì mỗi đức tính đều có những vai trò riêng và hết sức quan trọng trong việc hình thành phong cách làm việc, tác phong đạo đức của người cán bộ Kiểm sát theo tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mỗi người cán bộ Kiểm sát tuỳ theo lĩnh vực công tác được phân công, nếu kiên trì rèn luyện theo 5 đức tính mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy thì công việc chắc chắn đạt được kết quả tốt hoặc hạn chế được thiếu sót, sai lầm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung cũng như các mặt công tác khác của ngành Kiểm sát.

3. Vận dụng và giải pháp học tập gắn với 5 đức tính của cán bộ Kiểm sát nhân dân nhằm thực hiện tốt việc học tập và làm theo phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Một là, tăng cường giáo dục, rèn luyện xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu chú ý trang bị hệ thống kiến thức tổng hợp, phương pháp tư duy khoa học và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tăng cường việc giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức khoa học và kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao ý chí, nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế công tác; có khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi, tiền bạc, vật chất,...Thực hiện nghiêm Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Hai là, giữ vững các nguyên tắctập trung dân chủ và tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong làm việc và tuân thủ nghiêm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo, quản lý. Tăng cường phát huy dân chủ để khơi dậy tính sáng tạo, tập trung trí tuệ tập thể trong việc xây dựng, thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, người đứng đầu các cấp, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực thi công vụ, trong đó, nêu rõ những yêu cầu về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.

Ba là, tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Đẩy nhanh việc xây dựng và thực hiện các quy định, quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu cần kiểm tra, giám sát các đoàn thể để kịp thời phát hiện, phê bình, uốn nắn sai phạm, khuyết điểm.

Bốn là, xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo. Thực hiện đúng về quy định về đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của Ngành kiểm sát, phong cách làm việc, quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phong cách lãnh đạo, kèm theo các yêu cầu bắt buộc, cùng các chế tài cụ thể để xử lý sai phạm. Các tiêu chí về đạo đức công vụ phải cụ thể, rõ ràng và khả thi, tức là có thể thực hiện theo, có thể kiểm tra, đánh giá, có thể theo dõi, giám sát. Ví dụ, từ những quy định nhỏ về tôn trọng giờ giấc làm việc, hội họp; quy định về xưng hô với nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp- đối tượng được phục vụ; quy định về trang phục công sở... Trong các tiêu chí cần đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với nhân dân, trên cả 2 phương diện: nhân dân là đối tượng được phục vụ và nhân dân là chủ thể giám sát, kiểm tra, theo dõi thực hành công vụ. Phải xác định rõ, những nội dung nào cần phải công khai, minh bạch, đảm bảo yêu cầu phát huy dân chủ trong thực hành công vụ. Nhất thiết phải có những quy định về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu về cả tiền bạc, vật chất, thời gian. Tinh thần, thái độ, sự tận tụy với công việc cần được lượng hóa thành các quy định cụ thể. Đi kèm theo các quy định cụ thể, cần có chế tài đối với các vi phạm quy định và xác định cơ quan có chức năng xử lý vi phạm. Đồng thời, phải có những quy định để ràng buộc giữa lời nói và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm nói đi đôi với làm, nói thì phải làm và làm cho tốt. Nếu nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo thì người cán bộ, công chức, viên chức phải bị xử lý kỷ luật.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Cấp ủy, lãnh đạo đơn vị, đơn vị cấp trên cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng, thực hiện phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu các cấp. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao công tác kiểm tra, giám sát. Người đã thường xuyên nhắc nhở: Các cấp, các ngành nếu tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát cũng như Ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm chúng ta đều biết rõ. Kiểm tra, giám sát phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, giám sát. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra: Kiểm soát có hai cách: một là từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát những kết quả công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ các cách sửa chữa sự sai lầm đó.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Kiểm sát, cán bộ công chức trong toàn ngành Kiểm sát, dù ở vị trí công tác nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào, đặc biệt là trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, quyết tâm phấn đấu học tập và làm theo lời dạy của Người. Thực hiện được như vậy là đã góp phần tích cực vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành Kiểm sát trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước cũng như công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.

Nguyễn Kiến Thức - KSV

Video liên quan

Chủ Đề