Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp bảo vệ môi trường trong trường mầm non
SKKN Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm nonBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.76 KB, 27 trang ) Show
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM hướng dẫn thực hiện chỉ thị 02/2005/BGD&ĐT về việc: “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non giai đoạn “2005 -2010”. Công văn đã đề ra nhiệm vụ cho các các cơ sở giáo dục Mầm non tham gia vào công tác giáo dục bảo vệ môi trường từ đó trẻ hiểu biết về môi trường, giúp trẻ có hành vi, thái độ ứng xử phù hợp với môi trường để gìn giữ bảo vệ môi trường, biết sống hòa nhập với môi trường nhằm đảm bảo phát triển lành mạnh. Trẻ biết môi trường xung quanh trẻ bao gồm những gì? Trẻ biết phân biệt được môi trường xung quanh trẻ, những việc làm tốt – xấu đối với môi trường và làm gì để bảo vệ môi trường? Hay cũng có thể giáo dục trẻ cách chăm sóc giữ gìn sức khỏe cho bản thân trẻ, biết chăm sóc và bảo vệ cây cối, bảo vệ con vật nơi mình ở. Biết về một số ngành nghề, văn hóa, phong tục tập quán của địa phương, xây dựng cho trẻ niềm tự hào và ý thức gìn giữ bảo tồn văn hoá dân tộc. Xuất phát từ những lý do trên tôi đã giành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm ra một số biện pháp “Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5- 6 tuổi trong trường mầm non” Phạm vi và đối tượng áp dụng Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại trường mầm non tôi đang công tác. Đề tài này có thể áp dụng với tất cả các trường mầm non . Mục tiêu nghiên cứu của SKKN Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non. Phương pháp nghiên cứu. Để thực thi đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu (phân tích, tổng hợp tài liệu Internet, tập san, sách báo có liên quan đến đề tài). - Phương pháp điều tra giáo dục. - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp. - Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin. - Phương pháp kiểm tra đánh giá. Sơ lược điểm mới về vấn đề nghiên cứu Môi trường là vấn đề nóng bỏng được đem ra bàn luận trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng của nhiều quốc gia. Bảo vệ môi trường không riêng của một quốc gia mà là việc của cả thế giới từng cá nhân, tập thể. Việc áp dụng lồng ghép GDBVMT đòi hỏi giáo viên phải nhạy bén, linh hoạt, không trùng lặp, không gây quá tải, tận dụng nguồn nguyên vật liệu phế thải có sẵn để biến những dụng cụ dạy và học đơn giản nhưng mang tính khoa học và sáng tạo để trẻ thực hành và trải nghiệm một cách thoải mái và không gưỡng ép. Đồng thời kết hợp cùng phụ huynh tham gia nhiều phong trào xây dựng môi trường trong sạch. PHẦN 2. NỘI DUNG 2.1: Cơ sở khoa học, lý luận của SKKN. Môi trường trong trường mầm non bao gồm các khối phòng nhóm lớp theo các độ tuổi, phòng chức năng, sân chơi, cây xanh, con vật, nguồn nước và hệ thống thoát nước Giáo viên có thể tổ chức hoạt động một cách nhẹ nhàng mà lại phù hợp với tình hình thực tế. Các chuyên gia giáo dục đã khẳng định giáo dục bảo vệ môi trường là rất cần thiết và cấp bách bắt đầu từ thế hệ mầm non, tuy nhiên giáo dục bảo vệ môi trường ( GDBVMT) không thể đặt ra thành một môn học riêng mà chỉ có thể tích hợp trong các môn học của chương trình giáo dục mầm non. Bởi vậy năm học 2010- 2011 Sở Giáo Dục và Đào tạo đã tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học các biện pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 tuổi. Và đến nay năm học 2012 – 2013 bộ giáo án minh hoạ giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 tuổi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, khai thác. Không chỉ vậy năm học này vấn đề tích hợp giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo cũng được áp dụng lồng ghép và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo dưới nhiều hình thức khác nhau đáp ứng nhu cầu hứng thú của trẻ: “ Chơi mà học, học bằng chơi”. 2.2. Điều tra thực trạng. Bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc giáo dục môi trường cho trẻ. Trong quá trình soạn giảng chưa chú ý đến việc lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường vào các tiết dạy và hoạt động giáo dục. Đa số trẻ của trường tôi là nông thôn rất ham chơi, chưa có ý thức bảo vệ môi trường sân trường, lớp nhiểu trẻ còn đáp vỏ sữa, vỏ bim bim Hay nhiều lúc trẻ vẫn chạy một cách vô tư chưa biết nhặt rác ngay dưới chân mình để bỏ vào thùng, chơi chạy quá đà giẫm hết cả lớn vườn hoa của trường, thậm chí còn bẻ cành cây, bẻ hoa vườn trường, đi vệ sinh, rửa tay chưa biết khoá vòi nước lại Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mải làm kinh tế nên ít quan tâm đến con em mình tôi nhìn thấy nhiều phụ huynh do vội vàng đưa con đi học nên nhiều khi đi xe máy lấm bết bụi đường, nổ máy phóng thẳng vào sân trường tới cửa lớp gác chân xe (vẫn ngồi trên xe lấy miệng cắn xoẹt túi bim bim và cầm hộp sữa đang hút chít chít lại và đáp hộp sữa xuống sân trường rồi phóng xe đi thẳng). Đặc biệt môi trường xung quanh trường lớp vẫn còn bẩn, do trường học lại gần các khu dân cư cho nên còn có tình trạng mất vệ sinh môi trường công cộng như: Nước thải để chảy tràn nan gây ứ đọng, vứt và để rác sang bên cạnh trường Phương tiện phục vụ cho việc giáo dục môi trường chưa được đầu tư nhiều như: Thùng rác chưa có đủ và đúng quy cách, tủ giá kệ đựng đồ chơi đã hỏng Qua khảo sát thực trạng về kiến thức, hành vi bảo vệ môi trường ở trường lớp tôi đầu năm học 2012 - 2013 với số trẻ 39/39 tôi thấy kết quả trên trẻ như sau: Đầu năm học Nội dung điều tra Tốt % Khá % TB % Ý thức BVMT của trẻ 10 26 20 43 9 31 Từ những kết quả khảo sát như trên tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình phải làm gì và làm thế nào để nâng cao kết quả giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ đồng thời nhắc nhở cả phụ huynh, đánh thức ở họ ý thức bảo vệ môi trường, hãy sống cho mình và cả tương lai của con em mình sau này. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau đây để các đồng nghiệp cùng tham khảo. 2.3. Những biện pháp thực hiện. 2.3.1. Tích hợp, lồng ghép nội dung GDBVMT trong các chủ đề: Thông qua hoạt động học: Trẻ được tham gia nhiều vào các hoạt động khác nhau: phát triển thể chất, khám phá khoa học, âm nhạc, làm quen tác phẩm văn học, tạo hình mỗi hoạt động trên đều có những đặc trưng riêng và có ưu thế khác nhau như: trẻ quan sát, đàm thoại, thực hành trải nghiệm, thí nghiệm, chơi các trò chơi với trẻ để trẻ nhận ra được những việc làm tốt, không tốt, những hành động đúng – hành động không đúng kích thích trẻ suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, có thái độ phù hợp với môi trường trong và ngoài lớp học. Ví dụ: * Chủ đề: Trường mầm non thân yêu của bé: Ngoài việc cung cấp cho trẻ kiến thức về chủ đề, tôi còn giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh trường lớp sạch sẽ, không hái hoa bẻ cành cây xung quanh trường lớp Tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “ chọn những hành vi đúng - sai”. Cô làm tranh vẽ về việc giữ gìn bảo vệ môi trường của một bạn nhỏ như: bé vứt rác vào thùng, vứt rác bừa bãi, bé quét nhà, giẫm lên cỏ, bé đu cành cây, bé ngồi lên bàn, bé tranh giành đồ chơi Sau đó chia trẻ làm hai đội, mỗi đội có một bức tranh yêu cầu trẻ phải bật qua các vòng và yêu cầu đội khoanh tròn các hành vi đúng và một đội khoanh vào những hành vi sai. Thời gian sau một bản nhạc đội nào khoanh được đúng theo yêu cầu là chiến thắng. Kết quả: tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia vào trò chơi và có ý thức về BVMT như : Cùng cô sắp xếp đồ chơi, làm đồ chơi trang trí lớp, làu chùi bàn ghế, trồng thêm cây xanh góc thiên nhiên. * Chủ đề : Bản thân bé: Mục đích là giáo dục trẻ biết ích lợi của việc giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường đối với sức khoẻ con người. Trẻ có hành vi và thói quen tốt trong ăn uống: mời cô, mời bạn, không ăn quà vặt ngoài đường Nhận biết ký hiệu thông thường: nhà vệ sinh nam, nữ, thùng đựng rác và biết tranh một số vật dụng, nơi nguy hiểm đối với bản thân: dao, kéo, ổ cắm điện, ao, hồ Giờ học khám phá khoa học: “Năm giác quan của bé”. Cho trẻ khám phá thực hành trải nghiệm các giác quan và qua đó giáo dục trẻ biết chăm sóc giữ gìn đôi mắt ( không dụi tay bẩn lên mắt, rửa mặt hàng ngày bằng nước và khăn sạch ). Giáo dục trẻ biết giúp đỡ những bạn bị khiếm thị, bị cận không cho tay bẩn vào tai, không dùng que ngoáy tai của mình và của bạn, khi tắm gội chú ý không để nước chui vào tai biết đội mũ ô khi ra nắng và đeo khẩu trang, thường xuyên đánh răng và không ăn những thức ăn quá nóng, quá lạnh phải giữ vệ sinh răng miệng hàng ngày, tiết kiệm nước khi rửa tay và đánh răng Hay tiết hoạt động âm nhạc bài hát “ Cùng nhau bảo vệ môi trường” nhạc và lời nước ngoài: (Jang Young Song) tôi còn GDBVMT cho trẻ bằng cách giáo dục trẻ qua bài hát: Cô hỏi: Trong bài hát, rác trước khi vứt vào thùng phải làm gì?( Phải phân loại rác) Bài hát nên khuyên chúng ta nên phân loại rác trước khi cho vào thùng rác, phải luôn ý thức sử dụng lại các đồ vật có thể dùng được. Kết quả : Trẻ đã biết có hành vi đúng sai khi chăm sóc bản thân và môi trường, tự làm một số công việc đơn giản hang ngày : vệ sinh cá nhân, trực nhật *Chủ đề : Gia đình thân yêu của bé : Trẻ thấy được sự thay đổi của môi trường xung quanh nhà của trẻ, nhận biết được môi trường sạch, môi trường bẩn trong gia đình. Biêt quý trọng giữ gìn đồ dùng trong gia đình, cất đồ dùng, đồ chơi đúng chỗ, bỏ rác đúng nơi quy định, không khạc nhổ bừa bãi có ý thức về những điều nên làm như: khoá vòi nước không sử dụng, tắt điện khi ra khỏi phòng Tiết KPKH: “ Đồ dùng sử dụng bằng điện trong gia đình bé” Trẻ biết một số đồ dùng sử dụng bằng điện trong gia đình như: bóng điện để thắp sáng, quạt, tivi, đài, tủ lạnh, siêu điện Cô giáo dục trẻ những kỹ năng sử dụng đồ dùng bằng điện đúng cách vừa tiết kiệm lại có thể bảo quản đồ dùng, tránh được những vấn đề gây cháy nổ hay nguy hiểm khác.Cô đưa ra các tình huống nhằm lồng ghép nội dung “sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả” như khi ra khỏi phòng các con phải làm gì? ( Tắt đèn, tắt tivi, quạt ) Kết quả : Trẻ có ý thức giữ gìn nhà cửa sạch sẽ, có ý thức về những điều nên làm như : Tắt điện khi ra khỏi phòng, cất đồ dùng , đồ chơi đúng nơi quy đinh, khoá nước khi rửa tay xong. * Chủ đề : Thế giới thực vật : Giáo dục trẻ biết quá trình phát triển của cây ích lợi của cây xanh với môi trường sống và biết chặt phá rừng bừa bãi làm cho môi trường ô nhiễm, thiên tai xẩy ra nhiều và nghiêm trọng ảnh hưởng tới đời sống của con người. Đề tài : Cây xanh quanh bé tôi đã dùng biện pháp sau: Tôi cho trẻ chuẩn bị đồ dùng bằng vỏ hộp sữa chua hay vỏ mì tôm tôi cho trẻ làm thí nghiệm“ Trồng cây „ Trẻ được tự tay gieo trồng và mục đích của tôi là trẻ được thực hành, tìm hiểu và hàng ngày quan sát chăm sóc để trẻ biết thứ tự phát triển của cây. Sưu tầm bài hát, bài thơ, câu đố, hò vè về các loài cây để trẻ biết được ích lợi của cây đối với con người từ đó trẻ có thái độ yêu quí biết chăm sóc bảo vệ cây xanh.( không bứt lá, bẻ cành, lá, hoa, không giẫm lên cỏ, hoa ). Bên cạnh đó tôi mở rộng tìm những video về những cây thực vật sống trong lòng Đại Dương biển, đảo cho trẻ tìm hiểu và cung cấp cho trẻ thấy được môi trường biển đang bị ô nhiễm do khai thác chặt phá cây trồng ven biển và các loại tảo, rong biển quá mức Kết quả :Trẻ biết được sự phát triển của cây xanh,tận dụng các nguồn nhuyên liệu từ thiên nhiên làm một số đồ chơi: con trâu, chong chong, đồng hồ Trẻ biết mối quan hệ cây xanh với môi trường sống, biết rừng là nơi có nhiều cây, giúp chắn gió, ngăn lũ là nơi sinh sống của nhiều loại động thực vật. * Chủ đề thế giới động vật : Ngoài việc tôi cung cấp cho trẻ kiến thức về đặc điểm, ích lợi cũng như tác hại của một số con vật với đời sống con người. tôi còn giáo dục trẻ yêu quí các con vật nuôi, mong muốn và thực hiện những hành động tốt để chăm sóc bảo vệ những con vật gần gũi. VD: Trong chủ đề nhánh : Bé biết gì về một số động vật sống dưới nước” tôi cho trẻ cùng quan sát thí nghiệm với 2 con cá ở 2 bình nước khác nhau ( bình nước sạch và bình nước bẩn) cho trẻ nhận xét về sự tồn tại của hai con cá đó. Tôi còn mở rộng về một số động vật đang sống trong lòng Đại Dương như cá thu, tôm, cua để trẻ biết thêm về thế giới động vật nhưng chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng do ý thức con người Cô nhấn mạnh trong tự nhiên có rất nhiều con vật nhưng chúng có tên gọi, đặc điểm, hình dáng và môi trường sống khác nhau chúng đều cần được chăm sóc và bảo vệ. Kết quả : Trẻ biết yêu quý các loại động vật ,biết chăm sóc bảo vệ động vật quý hiểm và tránh những động vật hưng dữ. * Trong chủ đề giao thông: Tôi giúp trẻ hiểu được: - Một số đồ dùng nguy hiểm, một số quy định đơn giản để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông - Các hành vi văn minh khi tham gia giao thông. Trẻ phải nắm được phương tiện giao thông thải ra khói bụi: ô tô, xe máy, tàu hỏa…thả khói vào không khí. Biện pháp: Tôi cho trẻ xem những video hình ảnh của các phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường Người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, ngồi trên xe thò đầu qua cửa sổ, người ngồi sau đứng lên xe đạp, xe máy, đi xe không đeo kính khẩu trang, người đi bộ đi trên vỉa hè, đi đúng luật giao thông, trẻ em đá bóng dưới lòng đường hình ảnh người đi xe máy đeo khẩu trang, đeo kính đội mũ bảo hiểm Sau đó cho trẻ gạch nối những hành động đúng – sai khi tham gia giao thông, tô tranh những phương tiện giao thông bảo vệ môi trường, lựa chọn những lô tô phương tiện giao thông không gây ô nhiễm môi trường *Giáo dục trẻ đi đường biết bịt khẩu trang, đội mũ bảo hiểm tránh tai nạn, bố mẹ đưa đến trường phải để xe đúng quy định, không cho xe đi vào sân trường khói bụi làm ô nhiễm môi trường Trẻ biết nhận ra cái đẹp trong việc giữ gìn các đồ dùng, phương tiện đi lại của gia đình sạch sẽ, gọn gàng, ngăn lắp Kết quả: Chỉ trong một thời gian ngắn trẻ đã có thói quen đeo khẩu trang, đội mũ bảo hiểm và nhắc bố mẹ để xe ngoài cổng trường khi đến lớp. * Trong chủ đề “ Một số hiện tượng tự nhiên” Giúp trẻ biết về các hiện tượng tự nhiên: gió, mây,mưa, sấm chớp, sét, lũ lụt, núi lửa Qua đó trẻ biết phân biệt đặc điểm của nước, nguồn nước sạch, nước bẩn, ích lợi của nước sạch, biết tiết kiệm nước sạch, tránh xa những nguồn nước bẩn gây ô nhiễm bệnh tật cho con người tác hại của một số hiện tượng tự nhiên mang lại. Trong đề tài “ Sự kỳ diệu của không khí”. Tôi cung cấp trẻ biết được đặc điểm không khí không màu, không mùi, không vị, không khí có ở đâu, biết một số tác dụng đơn giản của không khí cũng như một số yếu tố gây ô nhiễm không khí và giáo dục cho trẻ có một số ý thức trong bảo vệ môi trường không khí. Tôi cho trẻ xem video và làm một số thí nghiệm với không khí: Bắt không khí, các hình ảnh đung than bếp, ô tô nhả khói Kết quả: Trẻ lớp tôi đã có một số kiến thức, hành vi, thái độ của mình về bảo vệ môi trường ( biết nhắc nhở bố, chú, người đến trường không được hút thuốc và biết tránh xa người hút thuốc, biết thu gom rác thải Như vậy việc lồng ghép GDBVMT cho trẻ thông qua các chủ đề khác như ở chủ đề: nghề nghiệp, quê hương đất nước, trường tiểu học quả thật rất phong phú, đa dạng khi chúng ta biết lồng ghép tích hợp để giúp trẻ có những kiến thức hiểu biết về chăm sóc cho bản thân, về môi trường xung quanh gần gũi với bản thân, biết sử dụng và giữ gìn đồ dùng luôn sạch sẽ gọn gàng, ngăn nắp biết sống vì môi trường, bảo vệ và giữ gìn môi trường, có thái độ đúng với môi trường một cách tích cực và hiệu quả. 2.3.2. Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động khác. Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt động vui chơi Hoạt động chơi mang tính tích hợp cao trong giáo dục trẻ, thông qua các trò chơi phân vai, trẻ đóng vai và thể hiện các công việc của người làm công tác bảo vệ môi trường như: Trồng cây, chăm sóc cây, nhặt rác xung quanh khu vực của lớp mình tôi hướng cho trẻ đóng vai bác sĩ phòng khám đa khoa( khám chữa bệnh cho mọi người, chú ý giữ gìn vệ sinh phòng khám, xử lý rác thải y tế ) Rồi cho trẻ đóng vai cảnh sát giao thông đi bắt những người vi phạm lấn chiếm vỉa hè, gây mất trật tự công cộng, đi sai đường, bán hàng rong giáo dục trẻ luật lệ an toàn giao thông và bảo vệ môi trường - Trò chơi gia đình: Phải dọn dẹp nhà cửa, lau chùi nền nhà sạch sẽ, quần áo gấp gọn gàng, ngăn nắp đi mua đồ dùng gia đình giữ gìn không rơi vỡ, quét màng nhện trước khi ăn phải rửa tay, rửa mặt sạch sẽ nhắc nhở mọi người phải sống tiết kiệm - Trò chơi nấu ăn: tập làm món ăn đơn giản chú ý vệ sinh dụng cụ nhà bếp - Góc xây dựng: Xây dựng công viên cây xanh, sắp xếp đồ dùng ngăn lắp hợp lý - Góc nghệ thuật: Múa hát những bài hát theo chủ đề, tạo những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu, dùng xong cất đúng nơi qui định - Góc thiên nhiên: Bác làm vườn chăm sóc vườn cây, lau lá, nhổ cỏ, tưới cây, nhặt lá khô, trồng cây, gieo hạt, chơi với cát nước( chơi xong phải rửa tay, chân bằng xà phòng lau ) Kết quả : Trẻ phấn khởi vui vẻ được tham gia hoạt động và đã thực hành rất tốt các vai của người bảo vệ môi trường. Thông qua tổ chức giờ ăn, ngủ cho trẻ: Đây là hoạt động nhằm hình thành các nề nếp thói quen trong sinh hoạt, đáp ứng sinh lí, trẻ được vui vẻ và thoải mái như : Tôi thường xuyên nhắc trẻ phải biết kê bàn ngay ngắn, biết lấy khay ( đựng cơm thừa, cơm rơi vãi và 1 khay để khăn ướt lau miệng ). Sau đó ra xếp hàng rửa tay bằng xà phòng theo qui trình 7 bước.( cô bao quát nhắc nhở trẻ thực hiện) Trong khi ăn cô nhắc trẻ ăn ngon miệng, nhai kỹ, ăn hết xuất, khi ho phải lấy tay che miệng, không nói chuyện trong khi ăn tạo những thói quen văn minh lịch sự trong khi ăn. Ăn xong biết xếp bát, thìa vào nơi quy định một cách gọn gàng, sau đó trẻ đi đánh răng, lau miệng, nhắc nhở trẻ tiết kiệm nước bằng cách lấy cốc hứng nước, không vặn vòi nước chảy liên tục khi đánh răng. Nhắc trẻ giữ gìn vệ sinh phòng, nhóm sạch sẽ, đi vệ sinh phải đúng nơi quy định, đi xong để dép lên giá xếp ngay ngắn theo tổ, sau đó biết lấy gối đi ngủ, biết gấp quần áo và để đúng nơi quy định. Kết quả : Trẻ có ý thức gọn gàng, ngăn nắp và có ý thức xây dựng bao vệ môi trường chung. Thông qua hoạt động đi dạo đi thăm. Trẻ được quan sát trực tiếp với môi trường tự nhiên, các địa danh xung quanh trường, lớp để trẻ cảm nhận về vẻ đẹp của môi trường quanh trẻ và có ý thức giữ gìn và bảo vệ. Tôi cho trẻ được đi thăm quan môi trường trong lớp học của những lớp học khác, khu vực quanh trường và thăm quan nghĩa trang liệt sĩ, uỷ ban nhân dân (UBND) phường Yêu cầu trẻ nhận xét về vệ sinh môi trường ở tại nơi đó và tìm ra cách khắc phục bảo vệ môi trường. VD: Trong buổi đi dạo đi thăm nghĩa trang liệt sĩ cô đặt câu hỏi tại sao cây trong nghĩa trang lại cằn cỗi và nhiều cỏ dại mọc trùm lên nhiều khu mộ của các anh hùng liệt sĩ vậy? Trẻ phải biết được tại khu vực này cây không được chăm sóc, mọi người không quan tâm nên chỉ có cỏ dại mọc lên. Từ đó tôi tổ chức cho trẻ nhổ cỏ, tưới nước cho cây, lau chùi các bia mộ làm cho môi trường nghĩa trang thêm sạch sẽ và khang trang. Tôi cho trẻ quan sát hoạt động lao động của người lớn đang trồng và chăm sóc cây cối, con vật, làm sạch môi trường xung quanh. Kết quả: Trẻ hứng thú có những việc làm thiết thực với môi trường. Thông qua hoạt động lao động ( ngoại khoá). Tôi hướng dẫn trẻ làm một số đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và vật liệu đã qua sử dụng: Lấy lá chuối bện con vật, bện kèn, nhặt hoa cỏ dại tập gói hoa tăng cô, tặng mẹ Lấy hột hạt, vỏ hến, sỏi để xếp hoa, quả.Thông qua đó tôi giáo dục trẻ ý thức tiết kiệm và ý thức lao động sáng tạo. Thường vào các buổi thứ 6 cuối tuần tôi cho trẻ lao động vệ sinh môi trường xunh quanh trường lớp như : + Tổ 1: Thu gom rác xung quanh trường ( nhặt giấy vun, vỏ bimbim, vỏ hộp sữa, thu gom lá bỏ vào thùng rác) + Tổ 2: Lau đồ dùng, đồ chơi, các giá để đồ chơi của lớp. + Tổ 3: Sắp xếp đồ chơi đúng nơi quy định Kết quả : Hình thành cho trẻ ý thức tự lập, tự giác và tinh thần đoàn kết cùng nhau bảo vệ môi trường. Thông qua hoạt động nêu gương. Hoạt động nêu gương cũng là một trong những hoạt động để tôi thực hiện nhiệm vụ GDBVMT cho trẻ một cách có chiều sâu, giúp cho trẻ có ý thức bảo vệ môi trường một cách hiệu quả nhất.Vào những buổi nêu gương cô cho trẻ nêu kể những việc làm tốt giúp cô giáo và các bạn như: biết kê bàn ăn, biết gấp khăn, biết đổ khay thức ăn thừa vào nồi, biết nhặt rác để vào thùng, xếp ghế, có kỹ năng sống như biết chào hỏi, khi mắc lỗi với cô hoặc bạn thì biết xin lỗi, khi có người khác giúp đỡ hay cho quà thì biết cảm ơn Trong những buổi nêu gương như vậy đã giúp trẻ làm tốt hơn những công việc hàng ngày trẻ lao động giúp cô. Tôi đã tuyên dương trẻ, khích lệ trẻ kịp thời và cho trẻ được cắm cờ. Vào những buổi nêu gương tôi thường xuyên cho trẻ kể những việc làm tốt mà trẻ đã làm trong ngày và được cắm cờ, trong đó tôi rất trú trọng đến vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường bằng cách tuyên dương, khen ngợi những trẻ đã làm giúp cô như nhặt lá rụng, quét lớp, trải thảm, cất gối, tiết kiệm nước khi rửa tay, rửa chân Kết quả : Trẻ hứng thú say mê tích cực rõ rệt hơn với việc BVMT Thông qua hoạt động lễ hội và giáo dục mọi lúc mọi nơi. Hoạt động lễ hội có một vị trí rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.Thông qua việc tổ chức lễ hội, hình thành ở trẻ các kỹ năng, thái độ, hành vi tích cực về các địa danh và môi trường, biết bảo vệ ,giữ gìn môi trường và các địa danh nơi diễn ra lễ hội. Nội dung được tích hợp trong các hoạt động giáo dục dưới nhiêu hình thức như theo ý thích của trẻ hoặc trong thời gian dạo chơi ngoài trời hay thăm quan. Ví dụ ngày lễ, ngày tết Nguyên Đán cô phát động phong trào “Tết trồng cây”, cô cùng trẻ sưu tầm cây xanh, cây cảnh về trồng và cùng tổ chức tưới và chăm sóc cây. Ngoài ra tôi vận dụng mọi lúc mọi nơi để giáo dục trẻ : Giờ ngủ dậy, giờ chơi tự do, thậm chí cả những lúc trẻ đi vệ sinh tôi cũng hướng dẫn trẻ cách rửa tay, rửa mặt và chải tóc Kết quả : Trẻ lớp tôi có thói quen vệ sinh rất tốt cũng như giữ gìn nét đẹp của phong tục, tập quán của dân tộc. 2.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin. Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy là vô cùng quan trọng, sử dụng công nghệ thông tin giúp cho trẻ có tư duy trực tiếp để phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ hứng thú bao nhiêu thì kết quả đạt được càng lớn.Nếu lựa chọn đề tài để dạy trẻ trên mọi tiết học mà chỉ có tranh ảnh không thì trẻ rất dễ bị nhàm chán, chất lượng trẻ chắc chắn sẽ không cao. Chính vì vậy mà tôi luôn tìm tòi học hỏi cách làm các hiệu ứng PowerPoint và trong năm học 2012 -2013 này chúng tôi cũng đã được cài phần mềm giáo án điện tử trong đó là kho tàng những tư liệu, tài liệu có hình ảnh âm thanh hiệu ứng rất đẹp về các tất cả các chủ đề, các lĩnh vực giải trí trong đó có cả tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường. VD: Góc giải trí có các trò chơi nhận thức, Góc khám phá Nhờ có các trò chơi trên máy vi tính như vậy trẻ của lớp tôi hứng thú, say mê trên màn hình, đồng thời các thao tác trên máy của trẻ được thiết lập, tư duy phát triển mạnh, sự ghi nhớ các hình ảnh đúng - sai được dễ dàng. Ngoài những biện pháp trên tôi luôn sưu tầm những tài liệu nói về môi trường và tôi sử dụng trên đĩa hình đưa vào máy vi tính và vào những giờ đón, trả trẻ tôi thường mở trên máy vi tính cho trẻ xem như những hình ảnh như :Tệ nạn chặt phá rừng, lũ lụt, thiên tai, dịch cúm gia cầm, đốt rừng lấy củi. Rồi những hình ảnh trẻ em tắm nước bẩn, phóng uế bừa bãi, tắm cùng với trâu…bên cạnh đó tôi sưu tầm những hình ảnh mang tính giáo dục treo ở góc tuyên truyền như :Trẻ tích cực diệt ruồi muỗi, rửa tay đúng dưới vòi nước, rửa mặt sạch sẽ hình ảnh bé tắt quạt, ti vi để tiết kiệm điện, quét rác đổ vào thùng, bé tưới cây xanh cùng cô, bé ngồi xe máy bịt khẩu trang và đội mũ bảo hiểm qua những hình ảnh đó tôi có thể tiến hành ứng dụng dạy trẻ trên tiết học hoặc trong các hoạt động để khắc sâu kiến thức giáo dục môi trường cho trẻ. 2.3.4. Công tác phối kết hợp cùng phụ huynh. Phụ huynh là nguồn động viên khích lệ và luôn sát cánh bên tôi bởi vì không những phụ huynh rèn nề nếp cho trẻ của mình mà còn tuyên truyền cho các bậc phụ huynh khác cùng ý thức để bảo vệ môi trường và nhiệt tình ủng hộ các phong trào của trường lớp Tôi đã tuyên truyền với phụ huynh về sự ô nhiễm môi trường của địa phương hiện nay bằng cách: + Trưng bày các góc chơi, sản phẩm của trẻ để giới thiệu với phụ huynh + Qua buổi đón trả trẻ nhắc nhở phụ huynh thường xuyên giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Nhắc nhở phụ huynh để xe đúng khu vực cho phép. + Lồng vào các buổi họp phụ huynh trao đổi về tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường. Tuyên truyền phụ huynh rèn nề nếp cho trẻ ở nhà như nhắc trẻ biết chào hỏi người lớn, mời bố mẹ ăn cơm, ăn cơm xong biết lấy tăm, lấy nước gấp quần áo để vào tủ của mình, cùng bố mẹ tham gia chăm sóc bảo vệ cây trong gia đình, giữ gìn vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, tích cực diệt ruồi, muỗi + Tuyên truyền bằng góc tranh ảnh ngoài cửa lớp học về các khu ô nhiễm môi trường, khu rác thải chưa được xử lý, những cánh đồng lạm dụng thuốc trừ sâu Đặc biệt trong năm học vừa qua phụ huynh lớp tôi đã ủng hộ một ngày công để cắt cỏ, lau chùi cửa, lan can ,dọn rác xung quanh khu vực trường lớp kết hợp cùng giáo viên chúng tôi trồng rau, trồng chuối cho khu vực vườn trường, nhiều phụ huynh đã ủng hộ rau giống, ủng hộ cát, đá trắng để tôi làm bể cát cho trẻ được thực hành chơi với cát, nước Điều đó đã khẳng định rằng công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường đã có sự đồng thuận và đạt kết quả cao. 2.4. Kết quả đạt được. Dựa trên những nghiên cứu và các biện pháp tôi đã thu lại được kết quả: 2.4.1.Về phía trẻ: Đa số trẻ có ý thức cá nhân, ý thức tập thể bảo vệ môi trường. Trẻ có kỹ năng sống, trẻ nói năng, ứng xử, giao tiếp với mọi người thân thiện, có ý thức với mọi hành vi BVMT. Trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, một cách hào hứng, tự nguyện.Trẻ yêu thích hứng thú mong muốn được làm những công việc phù hợp liên quan đến bảo vệ môi trường trong và ngoài lớp học sạch sẽ, thoáng mát.Trẻ có ý thức vệ sinh môi trường chung: không vứt rác bừa bãi, không khạc nhổ, không bẻ cây, hái hoa, biết chăm sóc cây, thường xuyên nhặt rác vệ sinh sân trường, đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết tiết kiệm điện, nước…Trẻ đã tự ý thức về hành vi của mình:Tự rửa tay trước khi ăn cơm, lau miệng khi ăn xong…đã biết nhắc nhở bạn không vứt rác bừa bãi… Trẻ có thái độ gần gũi với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, yêu quý chăm sóc bảo vệ cỏ cây hoa lá trong gia đình, nhà trường và ở khắp mọi nơi, yêu quý chăm sóc bảo vệ vật nuôi gần gũi, quý trọng bảo vệ đồ dùng đồ chơi, biết lau chùi đồ dùng đồ chơi bị bụi bẩn, thích tham gia vào việc trồng cây cùng các cô giáo trong trường. Trẻ có những thói quen hành vi văn minh lịch sự trong giao tiếp, ứng xử. Đã phát huy tính tích cực của trẻ khi trẻ được trải nghiệm với môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội. Trẻ đã biết động viên bố mẹ cùng tham gia như: nhắc bố mẹ không đi xe máy, xe đạp vào sân trường làm bụi bẩn sân trường, nhắc bố mẹ thu gom phế liệu, đóng góp tranh ảnh để làm đồ dùng, đồ chơi trang trí góc tuyên truyền. Trẻ tự phát triển ngôn ngữ mạch lạc, rõ ràng lưu loát đủ câu trong khi giao tiếp, khi đàm thoại.Tự có hành vi thái độ mong muốn được bảo vệ môi trường một cách rõ rệt. 2.4.2. Về phía phụ huynh: Phụ huynh rất phấn khởi yên tâm khi thấy con em mình có ý thức bảo vệ môi trường, không những ở trường mà còn cả ở trong gia đình cho nên đã đóng góp tranh ảnh có nội dung về môi trường, tranh ảnh, hình ảnh các hoạt động của con người về môi trường rồi đến các học liệu, vật liệu như: hạt rau, củ giống, rau, củ quả, bóng bay, nến, cát, sỏi để cho giáo viên và học sinh trải nghiệm trồng, chăm sóc cây. Bản thân các bậc phụ huynh cũng ý thức cao và trách nhiệm cao hơn rất nhiều về việc bảo vệ môi trường trong và ngoài trường mầm non Cụ thể: ủng hộ cây xanh, tham gia lao động dọn cỏ, dọn vệ sinh trường, vệ sinh đường làng khu dân cư. 2.5. So sánh đối chứng. Qua thực hiện một số biện pháp nghiên cứu về giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ lớp tôi từ đầu năm đến nay đã đã thu lại được những kết quả như sau: Đầu Năm học 2012 - 2013 Nội dung điều tra Tốt % Khá % TB % Ý thức BVMT của trẻ 10 26 17 43 12 31 Tháng 2/2013 Ý thức BVMT của trẻ 25 64 11 28 3 8 2.6. Bài học kinh nghiệm. Qua nghiên cứu và áp dụng biện pháp trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm giảng dạy như sau: -Giáo viên phải nhận thức đầy đủ đúng đắn về nội dung giáo dục bảo vệ môi trường và môi trường đối với sự phát triển của trẻ.Vì thể đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có những biện pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường, mọi lúc mọi nơi không ngại khó, khổ, ngại bẩn - Tích cực tìm tòi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để áp dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả năng của trẻ và tình hình thực tế ở trường, lớp. - Luôn phối kết hợp chặt chẽ cùng phụ huynh học sinh gia đình và nhà trường để giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Tích cự sưu tầm tranh đẹp, hấp dẫn đảm bảo tính thẩm mỹ có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường. -Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện rử sưu tầm băng hình chất lượng cao để lưu giữ và sử dụng trên tiết học và các hoạt động. - Lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu tổ chuyên môn dự giờ đóng góp xây dựng ý kiến. PHẦN 3. KẾT LUẬN 3.1. Kết luận chung. Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lại của đất nước. Chăm sóc giáo dục trẻ là chăm sóc đến tương lai của cả một dân tộc. Bởi vậy các nhà nghiên cứu khoa học đều thống nhất rằng: Giáo dục bảo vệ môi trường cần được quan tâm đúng mức ngay từ lứa tuổi mầm non vì trẻ ở lứa tuổi này rất thích tiếp xúc với thế giới tự nhiên và cuộc sống xung quanh. Để giúp trẻ có những kiến thức và kỹ năng thực hành bảo vệ môi trường phù hợp với khả năng của trẻ, điều quan trọng giáo viên phải luôn gương mẫu cho trẻ làm theo, luôn có ý thức hướng dẫn trẻ kiên trì không được đốt cháy giai đoạn. Trên cơ sở đó giáo dục trẻ biết yêu quý, gần gũi môi trường và đánh giá các hành vi tốt, xấu của con người trong việc chăm sóc bảo vệ môi trường. Từ đó biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ thể và trí tuệ. Đặc biệt qua giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ còn để nhắc nhở người lớn và đánh thức ở họ biết bảo vệ môi trường sống cho trẻ em cũng như bảo vệ cho một môi trường sống an toàn, sạch sẽ, lành mạnh và phong phú. Vì vậy giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ là vấn đề quan trọng và vô cùng cần thiết. 3.2. Những vấn đề gợi mở cần tiếp tục nghiên cứu. Những vấn đề được nghiên cứu giáo dục bảo vệ môi trường đã được thực hiện đến với trẻ một cách gần gũi và thuận lợi. Nhưng bên cạnh đó vấn đề tôi tiếp tục nghiên cứu để giáo dục trẻ đó là : - Vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường trẻ ở tại khu dân cư vì có rất nhiều tình trạng rác thải bừa bãi - Vần đề lồng ghép môi trường biển hải đảo vì hiện nay môi trường biển cũng đang là vấn đề nóng bỏng và cấp thiết cần tập trung nghiên cứu và áp dụng giáo dục trẻ.Từ đó trẻ có tình yêu, tự hào và ý thức bảo vệ, giữ gìn biển đảo quê hương Việt Nam. 3. 3. Một số khuyến nghị và đề xuất *Đối với giáo viên. Phải có trách nhiệm tuyên truyền và phối kết hợp cùng các bậc phụ huynh cũng như nhân dân có ý thức bảo vệ môi trường như: sử dụng các loại thuốc trừ sâu, thước bảo vệ thực vật, khi sử dụng xong phải có túi đựng và thu gom chai lọ để đúng nơi quy định. Phát động phong trào trồng cây xanh, tạo môi trường xanh – sạch- đẹp cho trường lớp. Giáo viên cần tăng cường sưu tầm tranh ảnh, tài liệu để trẻ được trải nghiệm và khám phá. Thường xuyên giáo viên phải khơi thông cống rãnh, vệ sinh sạch sẽ gốc cây, mái hiên, trần nhà do ban giám hiệu giao và bố trí lớp học khoa học, gọn gàng phù hợp với chủ đề. *Đối với nhà trường. Để phục vụ tốt cho việc giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non thì nhà trường nên có những hình thức tuyên truyền với phụ huynh một cách có hiệu quả như: tổ chức các buổi lao động tập thể, dùng các bản tin, thông báo để cung cấp kiến thức cho họ. Ngoài ra nhà trường cũng nên đầu tư và nâng cấp các loại trang thiết bị cơ sở vật chất, thùng đựng rác Xử lý tốt các nguồn nước thải, nhà vệ sinh. Trồng vườn rau sạch giúp bé tìm hiểu các loại rau, củ, quả, đồng thời còn cung cấp thực phẩm tươi, sạch cho nhà bếp. *Đối với địa phương Quan tâm sâu sắc hơn nữa đến ngành học mầm non. Tuyên truyền trên các thông tin đại chúng, các buổi họp giao ban với trưởng các ban ngành đoàn thể và tìm ra những giải pháp tốt nhất tránh tình trạng gây ô nhiễm đồng thời có biện pháp xử lý và phân loại rác thải kịp thời. *Đối với ngành giáo dục. Mở các lớp tập huấn, chuyên đề cho giáo viên rèn luyện thêm các kỹ năng về giáo dục bảo vệ môi trường. Mở các lớp tập huấn về giáo dục bảo vệ môi trường cho giáo viên tìm hiểu và tăng thêm kiến thức. Đầu tư thêm kinh phi cho ngành học mầm non và hỗ trợ thêm các trang thiết bị có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường như: Đĩa DVD, tập san về nạn phá rừng, sóng thần, rác thải, khí thải, khói bụi Phát động phong trào sáng tác thơ ca, truyện kể, trò chơi ,câu đố hội thi, hội giảng có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường. Trên đây là những biện pháp mà thực tế tôi đã thực hiện và thành công. Nhưng không thể tránh khỏi những thiếu xót nên rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 SKKN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO TRẺ LỚP MẦM NON 2019Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 19 trang ) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được hình thành và rèn luyện từ rất sớm, từ lứa tuổi mầm non giúp con trẻ có những khái niệm ban đầu về môi trường sống của bản thân mình nói riêng và con người nói chung là cần thiết. Từ đó biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ thể và trí tuệ. Do đó chúng ta cần giáo dục trẻ ý thức bảo vệ môi trường để hình thành cho trẻ ý thức và tư tưởng đúng đắn ngay từ còn nhỏ. Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ nhằm tạo ra thái độ, hành vi đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh. Việc khám phá quy 1 luật của tự nhiên nhằm mục đích bảo vệ môi trường cần phải được bắt đầu từ lứa tuổi mầm non. Vì vậy tôi luôn xác định việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể để phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được lồng ghép vào các hoạt động hằng ngày và phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn kinh nghiệm sống của bản thân. Để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất đó là điều mà những người làm công tác giáo dục cần phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công tác này không thể thiếu sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Là giáo viên trực tiếp chủ nhiệm lớp mẫu giáo nhỡ B4 tại trường mầm non Tô Hiệu, qua thực tế tôi thấy việc giữ gìn bảo vệ môi trường của trẻ đạt kết quả chưa cao. Trong mọi hoạt động hàng ngày, hầu hết trẻ chưa có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường. Hiện nay, nhiều gia đình chưa có ý thức giáo dục trẻ trong việc bảo vệ môi trường sống và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Hầu hết cha mẹ chiều các bé cho bé ăn quà vặt vứt vỏ lung tung, trẻ chơi đồ chơi xong không cất… người lớn làm giúp trẻ quá nhiều việc mà việc đó trẻ có thể làm được khiến cho trẻ thường xuyên ỉ lại, trẻ không biết và không có trách nhiệm với những việc mình làm. Từ đó cũng sẽ có ảnh hưởng tới ý thức và sự hình thành phát triển nhân cách của trẻ sau này. Với mục đích giúp trẻ phát triển một cách toàn diện, đặc biệt là hình thành nhân cách và có những ý thức tốt trong việc giữ gìn bảo vệ môi trường thì việc giáo dục cho trẻ ngay từ tuổi mầm non vô cùng quan trọng. Xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tế nêu trên. Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo Nhỡ B4 - trường mầm non .........................................năm học 2017 - 2018”. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG GIẢI PHÁP CẦN NGHIÊN CỨU Trường mầm non Tô Hiệu là trường trung tâm, trường điểm của thành phố. Các bậc cha mẹ học sinh nhiệt tình, tích cực hỗ trợ về tinh thần, vật chất, phối hợp cùng nhà trường làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về chuyên môn nghiệp vụ cho CBGV trong nhà trường. Lớp B4 do tôi phụ trách gồm có 37 học sinh ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ, trong đó: Trẻ nam: 22; trẻ nữ: 19; dân tộc: 11. Đại đa số trẻ trong lớp nhận thức tốt, trẻ ngoan ngoãn, thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát, thích được tìm tòi, khám phá hiện tượng xung quanh. Đặc biệt thích được trải nghiệm thực tế, được làm những công việc vừa sức mà cô giáo giao cho. Nề nếp trẻ được rèn luyện từ những năm trước, đến năm học này vẫn duy trì tốt. Trong nhiều năm qua, nhà trường luôn chú trọng triển khai và chỉ đạo thực hiện chuyên đề “Giáo dục và bảo vệ môi trường cho trẻ trong trường mầm non” trong toàn trường. Bằng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bảo 2 vệ môi trường cho trẻ như tổ chức các họat động thực hành trải nghiệm, các buổi dạo chơi tham quan nâng cao ý thức cho trẻ ý thức về bảo vệ môi trường trong trường lớp và nơi công cộng. Tuy các biện pháp trên đã mang lại những hiệu quả nhất định, xong khi thực hiện còn gặp một số khó khăn trong công tác tổ chức. Do số lượng trẻ đông đòi hỏi cần có nhiều giáo viên quản lý trẻ khi tổ chức cho trẻ di tham quan, nhưng trong thực tế, số lượng giáo viên của nhà trường còn hạn chế. Vì vậy khi tổ chức tham quan dã ngoại việc đảm bảo an toàn cho trẻ chưa được chặt chẽ. Việc tổ chức cho trẻ thực hiện các hoạt động thực hành có nhiều ưu điểm như tạo dược sự hứng thú cho trẻ, xong khâu chuẩn bị đồ dung trang thiết bị thực hành rất tốn kém, thường phải sử dụng nhiều kinh phí, mà nguồn kinh phí của lớp còn hạn hẹp. Vì vậy rất khó khăn cho giáo viên khi tổ chức các hoạt động này. Qua thực tế trên tôi thấy khi thực hiện các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ trong nhà trường và tại lớp mẫu giáo B4, có một số thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi - Được sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao về chuyên môn của Phòng giáo dục đào tạo thành phố. Sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường. - Lớp học rộng rãi, thoáng mát, trang thiết bị phục vụ công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tương đối tốt, đúng quy cách thuận tiện cho cô và trẻ. - Bản thân là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết với nghề, tận tình với công việc, có ý thức tự học tự rèn và luôn học hỏi đồng nghiệp. Có nhiều kinh nghiệm khi tổ chức các hoạt động cho trẻ cũng như kinh nghiệm chủ nhiệm lớp nhiều năm, chuyên môn đạt giáo viên giỏi cấp Thành phố, cấp Tỉnh; nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ. Trẻ trong lớp ngoan tích cực tham gia hoạt động. - Các bậc cha mẹ học sinh thường xuyên quan tâm đến công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ ở trường lớp. Trao đổi với cô giáo về tình hình học tập của con em mình. Đóng góp đồ dùng học liệu học tập, sinh hoạt cho con đầy đủ. Tham gia vào các hoạt động của lớp như đóng góp phế liệu làm đồ dùng đồ chơi phục vụ các chủ đề, chủ điểm. Phối hợp với nhà trường tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi cùng cô giáo. * Khó khăn - Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường chưa phong phú. Tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện còn thiếu. Diện tích sân chơi tuy rộng xong việc quy hoạch hệ thống sân chơi không khoa học, rất khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động cho trẻ ngoài trởi. - Một số trẻ còn nhút nhát, chưa tự tin còn ỉ lại cô giáo và người lớn. - Quan niệm của nhiều gia đình là trẻ mầm non tuổi còn còn nhỏ chưa cần thiết phải tự chăm sóc bản thân hay làm bất cứ một việc gì ví dụ trẻ lấy đồ chơi ra chơi, chơi xong không tự cất, ăn bánh, ăn quả xong không bỏ vỏ vào thùng rác 3 hoặc một số công việc gì đó đơn giản phù hợp, vừa sức với trẻ. Một số ít cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến con, còn phó mặc con cho cô giáo. - Biên chế trẻ trong lớp quá đông (vượt 7 trẻ theo quy định) Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi luôn suy nghĩ tìm tòi dần khắc phục tạo cho trẻ thói quen, có ý thức trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường. Qua khảo sát bước đầu khi dạy trẻ ý thức bảo vệ môi trường sử dụng phương pháp dạy học bình thường tiến hành theo các bước của một giờ học xong mức độ hứng thú chưa cao, nhiều trẻ còn tỏ ra miễn cưỡng khi phải làm theo yêu cầu của cô, không tự giác còn ỉ lại cô giáo và các bạn, thậm chí còn không quan tâm đến việc làm sai của mình, của bạn. Kết quả khảo sát chất lượng trẻ đầu năm về giáo dục bảo vệ môi trường cho thấy: Kết quả khảo sát Nội dung Số lượng Tỉ lệ % Trẻ biết bỏ rác đúng nơi quy định 25/37 67,6% Trẻ biết cùng cô làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, chia sẻ hợp tác với bạn bè và cha mẹ, biết nhắc nhở bố mẹ mang những nguyên vật liệu phế thải đến lớp để làm đồ chơi và những đồ dùng tự tạo. 27/37 73% Trẻ có hiểu biết về môi trường sống của con người, về mối quan hệ giữa con người với động vật, thực vật. Trẻ nói được những điều nên làm và không nên làm của con người có ảnh hưởng tới môi trường sống. 29/37 78,4% Trẻ hào hứng tham gia các hoạt động trực nhật khi được phân công. 28/37 75,7% II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Bản chất giải pháp mới Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ tuổi mầm non luôn là một hoạt động mang tính giáo dục cao, nó đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén, tận dụng nguồn nguyên vật liệu thải bỏ để biến chúng thành những dụng cụ dạy học, đồ chơi cho trẻ một cách đơn giản nhưng thể hiện rõ nét sự sáng tạo và ý tưởng phong phú qua mỗi sản phẩm. Xuất phát từ những trăn trở ấy, tôi đã xây dựng kế hoạch tổ chức cũng như biện pháp để hoạt động này mang đến hiệu quả nhất định. Thực hiện chương trình Giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mà phương pháp hình thức tổ chức theo hướng tích hợp theo chủ đề. Vì thế, các nội dung, các hoạt động dạy trẻ được lựa chọn cho phù hợp với từng chủ đề, chủ điểm được giáo viên lựa chọn xây dựng trong kế hoạch năm học, chính vì vậy 4 việc lựa chọn các nội dung, các hoạt động giáo dục phải phù hợp với từng chủ đề chủ điểm và đối tượng trẻ trong lớp. 1. 1. Biện pháp 1: Lựa chọn nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ thông qua các chủ đề để tổ chức các hoạt động cho trẻ - Thông qua các hoạt động học có chủ đích, hoạt động vui chơi, các giờ sinh hoạt, tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ dựa vào tình hình của lớp và khả năng thực tế của trẻ. Lựa chọn để đưa vào kế hoạch những nguyên vật liệu có thể tạo được sản phẩm đáp ứng được phương châm "Học bằng chơi, chơi mà học" của trẻ để đảm bảo hiệu quả đạt được luôn ở mức cao nhất. - Kế hoạch giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ cũng được xây dựng từ dễ đến khó, mức độ tăng dần theo các chủ đề. Trong biện pháp này tôi đã xây dựng kế hoạch và lựa chọn các nội dung, hoạt động tích hợp theo từng chủ đề như sau: Ví dụ chủ đề: Trường Mầm non - Giới thiệu các khu vực trong trường, các khu vệ sinh, nơi bỏ rác, vứt rác. Để trường lớp bé luôn đẹp để trẻ biết giữ gìn trường lớp sạch sẽ, lau dọn đồ dùng đồ chơi ở trường, lớp như góc địa phương, góc vận động của trường; ở lớp học là góc phân vai, xây dựng, học tập, góc thiên nhiên… - Xem tranh ảnh đoạn băng hình có các tình huống về việc giữ gìn vệ sinh cảnh quan của trường, của nơi công cộng, trò chuyện với trẻ về cách xử lý tình huống của trẻ. Nhặt rác trong sân trường, và nhặt lá cây rụng bỏ vào thùng rác. - Trò chuyện về sự cần thiết của việc rửa tay, rửa mặt. Những thời điểm cần rửa tay, rửa mặt (trước khi ăn, sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi hoạt động ngoài trời và khi tay bẩn). Ví dục chủ đề: Gia đình - Bé ở nhà cũng chăm lắm đấy: giáo dục trẻ ở nhà chơi xong thì phải biết cất đồ chơi, dọn nhà giúp mẹ.. - Cô và trẻ cùng trò chuyện về công việc của trẻ ở nhà. Cô giáo dạy cho trẻ biết giúp đỡ bố mẹ sắp xếp, dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp gấp quần áo… - Dạy trẻ biết chăm sóc cây hoa có trong nhà mình (tưới nước, nhặt lá vàng, bắt sâu, nhổ cỏ…). - Phối hợp, tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh cùng tham gia giáo dục trẻ tại gia đình thông qua các hoạt động trao đổi hàng ngày, thông qua góc tuyên truyền và kế hoạch giảng dạy của lớp. Ví dụ chủ đề: Thế giới thực vật - Tìm hiểu về sự phát triển của cây xanh và các loại hoa. Ích lợi của cây xanh, cây xanh với môi trường sống của con người, động thực vật và giáo dục trẻ chăm sóc cây xanh để bảo vệ môi trường. - Góc thiên nhiên: Cho trẻ chăm sóc cây cảnh, tưới nước cho cây, nhặt lá vàng, lá rụng. 5 - Góc tạo hình: Sử dụng các loại lá cây trẻ nhặt được kết thành những đồ chơi dân gian mà trẻ yêu thích (con trâu, chong chóng, diều…), hay làm những bức tranh từ lá hoa khô… - Quan sát cây cảnh có trong sân trường và ích lợi của các loại cây. Chăm sóc cây cảnh, hoa trong vườn trường. Thực hành trồng cây và theo dõi sự phát triển của cây theo các điều kiện môi trường. - Tổ chức cho trẻ làm các thí nghiệm về sự phân hủy của lá cây; thí nghiệm về không khí bị ô nhiễm từ khói, cây cần nước, ánh sáng, không khí; điều kiện hạt nảy mầm, phát triển của cây… Các bé đang quan sát sự phát triển của cây Ví dụ chủ đề: Tết và mùa xuân - Giúp mẹ dọn nhà, trang trí nhà, trang trí lớp học đón tết. - Cô và trẻ cùng trò chuyện về những hoạt động của trẻ trong những ngày tết. Giáo dục trẻ khi đi chơi tết, đến những nơi công cộng không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành lộc, ngắt hoa ngày tết. - Góc tạo hình: Cô cho trẻ hoạt động theo nhóm. Làm dây xúc xích, thiếp chúc mừng năm mới. Làm dây pháo trang trí ở lớp và ở nhà bằng vỏ hộp chè, bìa cứng. Làm bánh chưng bằng vỏ hộp bánh cũ. Tận dụng những quyển lịch bàn cũ và những tờ bìa cứng làm thiệp chúc tết … - Cô và trẻ cùng dọn dẹp lớp, lau chùi đồ chơi để chuẩn bị đón tết. Ví dụ chủ đề: Giao thông Xem đoạn băng video về mật độ của các phương tiện giao thông trên đường qua từng năm và ảnh hưởng của sự gia tăng các phương tiện giao thông đối với 6 môi trường. Tiếng còi của các phương tiện giao, khí thải của các phương tiện giao thông và ảnh hưởng của chúng đối với môi trường… Ví dụ chủ đề: Nước và các hiện tượng thiên nhiên - Cho trẻ tìm hiểu về tác hại của thiên tai, bão lũ, hậu quả của nó. Nguyên nhân từ đâu và trò chuyện về việc cần phải làm gì để giảm bớt những hậu quả thiên tai đó. Trò chuyện về những hiện tượng thiên nhiên như: Núi lửa, động đất, sóng thần. Nguyên nhân và cách phòng tránh. Chăm sóc cây cảnh có trong sân trường, góc thiên nhiên (tưới cây, hoa, nhặt lá vàng…). - Tìm hiểu vể nước và tác dụng của nước đối với con người: nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của con người, từ đó giáo dục trẻ ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, biết cách sử dụng nước tiết kiệm và đúng mục đích. - Cho trẻ xem băng hình, hình ảnh, suy nghĩ và đưa ra nhận xét về một số hành vi đúng sai của con người đối với môi trường. Trò chuyện về một số hành vi bảo vệ môi trường của con người trong sinh hoạt hằng ngày. Cho trẻ thực hành một số hoạt động về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong lớp học. - Trò chuyện về những điều nên làm và không nên làm của con người để bảo vệ môi trường. Hoạt động này cũng có thể sử dụng kết hợp hình ảnh minh họa để khắc sâu kiến thức cho trẻ. Ví dụ chủ đề: Quê hương đất nước - Đặc điểm địa hình của địa phương nhiều đồi núi có nhiều rừng nghề lâm nghiệp có tỷ lệ cao, trồng rừng mang lại lợi ích gì cho địa phương, cho môi trường… Giới thiệu về lễ hội ở địa phương và các trò chơi dân gian. Giáo dục trẻ khi đến lễ hội không được vứt rác bừa bãi, không ngắt hoa bẻ cànhvà những đồ trang trí trong lễ hội. - Tìm hiểu về các danh lam thắng cảnh của quê hương .........................., đất nước Việt Nam, Thủ đô Hà Nội. Giáo dục trẻ đi du lịch biết bảo vệ môi trường sạch đẹp không vứt rác bừa bãi, không bẻ cây, ngắt hoa, không giẫm lên cỏ và không phá hoại đồ chơi ở những nơi công cộng, ở những nơi mình đến không chỉ là bảo vệ môi trường mà đó còn là những hành vi văn minh. Dạy trẻ biết xây dựng và cùng giữ gìn những cảnh quan đó. - Giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường nơi trẻ sống và những nơi công cộng (vườn hoa, công viên…). - Tìm hiểu về tác hại của khói thuốc lá đối với sức khỏe con người và môi trường xung quanh. 1. 2. Biện pháp 2: Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động vui chơi - Thông qua các trò chơi phân vai: Trẻ đóng vai và thể hiện các công việc của người làm công tác bảo vệ môi trường như: trồng cây, chăm sóc cây, thu gom rác, xử lý các chất thải. Trong các trò chơi “Bé tập làm nội trợ” giáo viên luôn chú ý dạy trẻ có ý thức tiết kiệm nước và các nguyên liệu chế biến món ăn, thu gom đồ dùng gọn gàng sau khi làm… 7 - Thông qua các trò chơi học tập: Trẻ tìm hiểu các hiện tượng trong môi trường, trẻ học cách so sánh, phân loại các hành vi tốt, xấu đối với môi trường, phân biệt môi trường sạch, môi trường bẩn và tìm ra nguyên nhân; trẻ biết giải các câu đố, kể lại các câu chuyện về bảo vệ môi trường… - Thông qua các trò chơi vận động: Trẻ mô tả các hành vi bảo vệ môi trường: động tác cuốc đất, trồng cây, tưới nước, bắt sâu… ; hoặc làm hại môi trường: chặt cây, dẫm lên thảm cỏ, đốt rừng, săn bắt chim, thú… - Thông qua các trò chơi đóng kịch: Trẻ thể hiện được nội dung các câu chuyện bảo vệ môi trường: “Hạt đỗ sót”, “Biết đi đâu”, “Con hãy đợi rồi sẽ biết”, “Nỗi đau của lá”, trẻ biết thể hiện các hành vi có lợi, hành vi có hại đối với việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào trong các chủ đề, các hoạt động giáo dục trẻ, tôi đã chú trọng việc cho trẻ được thực hành trải nghiệm thực tế trong trường, lớp. - Hoạt động ngoài trời: Tôi tổ chức cho trẻ các hoạt động như nhổ cỏ, cắt tỉa lá vàng, tưới cây chăm sóc góc thiên nhiên. Hướng dẫn trẻ biết các khu vực và chức năng của các khu vực đó trong nhà trường như: Khu vực vận động có tác dụng giúp trẻ được thực hành các kỹ năng vận động (chạy nhảy, bật, ném, bò, trườn, trèo…). Khu vực vệ sinh là nơi để thùng rác, là nơi trẻ đi vệ sinh hàng ngày (nhà vệ sinh, thùng rác). Khu vực góc dân gian cung cấp cho trẻ các kiến thức về các sản phẩm của địa phương ............… Đồng thời tôi giáo dục cho trẻ sự cần thiết phải vệ sinh ở các khu vực đó và cách thức vệ sinh như thế nào cho sạch sẽ Dạy trẻ chăm sóc cây ở góc thiên nhiên Dạy trẻ nhặt rác bỏ vào thùng rác - Tôi xây dựng kế hoạch trực nhật và lịch phân công trực nhật trong giờ hoạt động vui chơi ngoài trời. + Việc đưa ra kế hoạch trực nhật và phân công trực nhật theo lịch đã kích thích tích tự giác của trẻ, giúp trẻ có tinh thần trách nhiệm cao với công việc được giao, đồng thời tập cho trẻ có thói quen làm việc theo kế hoạch đã định. 8 + Tận dụng thời gian của giờ sinh hoạt chiều để giáo dục trẻ thói quen trực nhật cuối ngày theo nhóm hoặc cá nhân. Chăm sóc góc thiên nhiên của lớp, sắp xếp, lau dọn kệ đồ chơi, nhắc nhở bạn cùng nhau thực hiện. 1.3. Biện pháp 3: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua những khái niệm đơn giản và gần gũi với trẻ Tôi đã chú trọng cung cấp những hiểu biết về môi trường xung quanh của trẻ. Điều có thể nhận thấy rất rõ trong đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi mầm non đó là trẻ rất thích thú khi được làm quen, khám phá môi trường xung quanh. Đặc biệt, đối với trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ trẻ đã có một số vốn kiến thức phong phú về môi trường xung quanh, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên dễ dàng hơn khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục môi trường cho trẻ. Tuy nhiên, để hệ thống hóa các khái niệm mang tính trừu tượng về môi trường xung quanh đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, nhạy bén trong các phương pháp giáo dục trẻ. Giáo viên phải giúp trẻ hiểu và phân biệt được đâu là môi trường sạch, môi trường bẩn và các tác hại khi sống trong môi trường bẩn để từ đó trẻ luôn có các nhận thức bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe của trẻ. Ví dụ: Cô giáo tạo tình huống làm môi trường lớp học bừa bộn có nhiều rác, đồ dùng đồ chơi không ngăn nắp (khái niệm trực quan về môi trường bẩn). Cô cho trẻ quan sát và đưa ra các ý kiến nhận xét môi trường trong lớp sạch hay bẩn. Từ đó định hướng trẻ đưa ra cách giải quyết: Trẻ tự phân công cho từng tổ, nhóm, cá nhân trực nhật và thực hiện công việc. Sau khi lao động xong cho trẻ nhận xét, so sánh môi trường của lớp học trước khi lao động với sau khi lao động (khái niệm trực quan về môi trường sạch). Cô định hướng cho trẻ trả lời, sau đó đưa ra kết luận thế nào là môi trường sạch và tế nào là môi trường bẩn. Dạy bé lau tủ đồ chơi để tạo một môi trường sạch - Khái niệm về các thói quen lao động tự phục vụ: Cô cho trẻ lau dọn, sắp xếp gọn gàng đồ dùng, đồ chơi, không vứt rác, vứt đồ chơi bừa bãi. Đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết giữ gìn nhà vệ sinh sạch sẽ, biết rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Biết tiết kiệm nước trong sinh hoạt hằng ngày, không để vòi nước chảy liên tục, thấy nước chảy tràn biết khóa vòi lại… Bằng 9 những việc làm cụ thể như trên, sau đó cô kết luận: Những việc các con làm chính là các thói quen lao động tự phục vụ. Với khái niệm về“ô nhiễm môi trường”, tôi cho trẻ xem các hình ảnh, Video về sự ô nhiễm môi trường nước (nước biển, sông suối, ao hồ bị nhiễm bẩn, rác thải…), môi trường không khí (bụi, khói…). Cho trẻ nhận xét, trao đổi về các hình ảnh đó và đặt ra các tình huống, hệ thống câu hỏi cho trẻ trả lời. Ngoài ra tôi cho trẻ đưa ra những nhận xét về nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đôi khi chỉ là những hành động, những việc làm thiếu suy nghĩ của con người. Ví dụ như vứt rác xuống sông hồ, làm cho nước ở sông hồ bị ô nhiễm. Hay đơn giản như khi trẻ ăn bim bim, trẻ cầm ngay vỏ bim bim ném xuống sân trường hoặc một nơi nào đó, mà không vứt vào thùng rác, hành động bẻ cây, vặt lá, hái hoa hoặc hành động trẻ khạc nhổ nơi công cộng… điều đó cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. Cuối cùng tôi tổ chức cho trẻ thực hành thông qua các tình huống và bằng việc làm cụ thể như nhặt rác, quét dọn sân trường, lớp; vệ sinh góc vận động, góc dân gian của trường, vệ sinh chăm sóc góc thiên nhiên của lớp… 1.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ học và cùng làm đồ dùng, đồ chơi đơn giản từ nguyên vật liệu sẵn có Bên cạnh những biện pháp vừa kể trên, tôi thường xuyên kết hợp với Giáo viên cùng lớp, cùng khối suy nghĩ, tìm kiếm, lựa chọn những mẫu đồ dùng, đồ chơi đơn giản được tận dụng từ nguyên vật liệu thải bỏ để làm đồ dùng đồ chơi, làm đồ dùng dạy học. Tôi nhận thấy, có rất nhiều sản phẩm được tạo ra từ nguồn nguyên vật liệu này và trẻ đã hào hứng chơi với những đồ chơi ấy vì yếu tố mới lạ luôn hấp dẫn trẻ. Nhằm kích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ vào các hoạt động một cách tích cực. Những mẫu đồ dùng đồ chơi được giới thiệu trên các trang mạng internet của Giáo dục mầm non cũng là nguồn tài nguyên quý giá để tôi tham khảo, chọn lọc và vận dụng vào làm trong thực tế. Đồ dùng do tôi tự tạo từ những nguyên vật liệu sẵn có không mất tiền mua 10 Hội thi “Giáo viên làm đồ dùng” cấp trường tôi và đồng nghiệp tham dự Phân nhóm trẻ, giao nhiệm vụ cho từng nhóm tìm kiếm và sưu tầm các đồ dùng, nguyên liệu để làm đồ dùng học, sưu tầm họa báo, sách trẻ có một hoạt đông gấp thuyền đầy ý nghĩa, hay làm được những album từ cắt các họa báo. Sưu tầm lá cây hoa để tạo bức tranh đẹp… Biện pháp này giúp trẻ tăng cường hoạt động và có ý thức làm việc theo nhóm. Tôi tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có không sử dụng do cha mẹ học sinh quyên góp đến tổ chức cho trẻ thể hiện, rèn luyện các kỹ năng (gấp, vo, vẽ, xé, dán…) nhắm tạo sự hứng thú khi được khám phá các loại nguyên vật liệu, được tự tay mình làm những món đồ chơi mình thích và được trải nghiệm nó trong tự nhiện. Ví dụ như cho trẻ vo giấy tạo quả bóng, viên bi để chơi trò chơi “Ném bóng vào rổ”, “Búng bi”; dùng giấy gấp thuyền để chơi trò chơi “Thả thuyền”; cho trẻ găp máy bay để chơi trò chơi “Máy bay”... Thông qua hoạt động trên, tôi giáo dục để trẻ hiểu được việc tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có trong gia đình, trong trường lớp cũng đã góp phần làm sạch môi trường, bảo vệ môi trường, tiết kiệm chi phí cho cha mẹ, cho lớp… Với tờ giấy báo, giấy gói hoa trẻ đã có giờ hoạt động gấp thuyền thật ý nghĩa 11 Từ những thực nghiệm của chính bản thân mình, hình thành cho trẻ kỹ năng quan sát, phán đoán, giải thích, suy luận, qua đó có thể cung cấp hoặc củng cố kiến thức cho trẻ. 1.5. Biện pháp 5: Tăng cường công tác tuyên truyền và phối kết hợp với cha mẹ học sinh Tuyên truyền và phối kết hợp với các bậc cha mẹ học sinh trong công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là một biện pháp không thể thiếu khi giáo dục cho trẻ. Bởi, chỉ có làm tốt công tác tuyên truyền, vận động giáo viên mới nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình của cha mẹ học sinh về nguồn nguyên vật liệu thải bỏ để giáo viên có thể tận dụng, hướng dẫn các bé làm đồ chơi đơn giản cho mình. Đồng thời, cũng thông qua công tác này, cha mẹ học sinh sẽ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho con trẻ không phải chỉ ở phía nhà trường mà còn ở cả gia đình. Song song với việc làm tốt công tác tuyên truyền, vận động cha mẹ học sinh, tôi còn thường xuyên tìm và tải trên trang mạng, các thông tin trên báo đài, phóng sự về nêu cao tinh thần, ý thức bảo vệ môi trường nhằm phục vụ cho công tác giáo dục trẻ ngày càng tốt hơn. Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh mang những nguyên vật liệu thải bỏ đến lớp để cô và trẻ cùng làm đồ dùng đồ chơi và cùng học. Thông qua các góc tuyên truyền, các buổi họp cha mẹ học sinh, tôi đã cung cấp cho cha mẹ học sinh hiểu hơn về các công việc của cô giáo trên lớp và các hoạt động của trẻ, bằng cách xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch phối hợp với cha mẹ hàng tuần, lưu giữ tại góc tuyên truyền để cha mẹ học sinh theo dõi hàng ngày. Lưu giữ các hình ảnh hoạt động của trẻ trong công tác bảo vệ môi trường, từ đó các bậc cha mẹ hiểu và phối hợp cùng giáo viên dạy trẻ tại gia đình. Trong năm tổ chức được 3 buổi tuyên truyền về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và có 109 cha mẹ học sinh tham dự. Sưu tầm được 25 bộ đồ chơi các loại, 15 tập tranh ảnh trưng bày tuyên truyền cho cha mẹ học sinh. 2. Ưu nhược điểm và giải pháp mới 2.1. Ưu điểm Lựa chọn các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, giúp cho giáo viên chủ động hơn trong việc tổ chức các hoạt động. Giáo viên không phải mất nhiều thời gian đầu tư suy nghĩ, tìm đồ dùng khi tổ chức các nội dung hoạt động. Khi tổ chức hoạt động này giáo viên chỉ cần lựa chọn địa điểm, các đồ dùng để tổ chức. Khi tổ chức biện pháp các nội dung phù hợp với từng hoạt động cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ, vừa sức trẻ nhằm tạo ra thái độ, hành vi đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh. Thân thiện với môi trường hơn, đoàn kết phối hợp cùng nhau thực hiện, thông qua đó hình thành và phát triển cho trẻ kỹ năng sống lành mạnh, ý thức trách nhiệm cao. Mặt khác kích thích trẻ tư duy, tưởng tượng sáng tạo, óc thẩm mĩ, 12 tạo được sự hứng thú lôi cuốn trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động do cô tổ chức. Đồng thời phát triển rất hiệu quả thể chất cho trẻ, khả năng chú ý, khả năng quan sát, xử lý các tình huống… Biện pháp tuyên truyền tới các bậc cha mẹ giúp cho giáo viên thuận lợi hơn trong quá trình phối hợp với gia đình để tổ chức hoạt động này. Qua công tác tuyên truyền, giúp cha mẹ học sinh hiểu được công việc của giáo viên và các hoạt động của con em mình trên lớp, từ đó họ chia sẻ, hỗ trợ cùng giáo viên để thực hiện hoạt động này hiệu quả hơn. 2.2. Nhược điểm Việc lựa chọn nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ còn gặp một số khó khăn tài liệu giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non do nguồn cung cấp còn hạn chế. Vì vậy giáo viên phải truy cập mạng Internet để tìm tham khảo. Nếu giáo viên không biết chọn lọc, chọn lựa nội dung giáo dục không phù hợp dẫn đến việc tổ chức hoạt động đạt hiệu quả thấp... Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn hạn chế. Trẻ rất thích tham gia hoạt động, thích khám phá cái mới, cái đẹp nhưng cũng nhanh chán khi trẻ không còn hứng thú, vì vậy nếu giáo viên không có khả năng sư phạm, nghệ thuật tổ chức cứng nhắc, đơn điệu, đặc biệt không tâm huyết, không yêu nghề thì sẽ rất khó làm cho trẻ tập trung chú ý của trẻ vào các hoạt động dẫn đến hiệu quả không cao. Việc tuyên truyền phối hợp cùng các bậc cha mẹ trẻ trong nội dung này đã được sự ủng hộ nhiệt tình của cha mẹ, tuy nhiên sự nhận thức của các cha mẹ không đồng đều, nhiều cha mẹ trẻ không hiểu bản chất của vấn đề cho rằng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là quá sớm vì trẻ còn quá nhỏ thì đã làm được gì... nên không muốn ủng hộ và phối hợp cùng giáo viên. III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ”. Đã được tổ chức áp dụng tại lớp Mẫu giáo nhỡ B4, .............................................. trong năm học 2017-2018 và đã đem lại hiệu quả cao. Các hoạt động do giáo viên tổ chức trong các đợt kiểm tra chất lượng, thao giảng trong năm học đều được đánh giá xếp loại giỏi. Sáng kiến này đã được một số giáo viên trong nhà trường áp dụng và đạt kết quả tốt. Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ” chỉ có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể là giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non. Để thực hiện tốt sáng kiến kinh nghiệm ở lớp cần phải có các điều kiện để tổ chức cho trẻ hoạt động như: Về các hoạt động trên lớp cô phải tạo môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học, lồng ghép với các hoạt động hằng ngày, tuyên truyền với cha mẹ trẻ về tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đối với trẻ mầm non. Trước khi vào mỗi hoạt động cho trẻ ở trên lớp tôi cũng phải nghiên cứu làm thế nào khi hướng dẫn trẻ để trẻ dễ hiểu, cần chuẩn bị đồ dùng gì, tích hợp vấn đề 13 nào, thực hành tham gia hoạt động gì khuyến khích trẻ tích cực tham gia... Sau mỗi hoạt động phải đánh giá được kết quả về nhận thức kỹ năng tình cảm xã hội, giao tiếp để có biện pháp dạy trẻ mọi lúc mọi nơi, rút ra kết luận và có biện pháp tốt hơn trong các hoạt động lần sau. Đánh giá kết quả trong quá trình thực hiện, để có kết quả so sánh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, xem kết quả đó có đạt với yêu cầu đề ra hay không. Phạm vi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ” của tôi có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi trong giáo dục mầm non toàn tỉnh, vì trong quá trình nghiên cứu tôi đã lựa chọn các nội dung, các hoạt động phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi nói chung. Điều kiện tổ chức cũng đơn giản, không quá phức tạp, cầu kỳ, có thể tổ chức thực hiện cho trẻ tại những nơi điều kiện khó khăn và những nơi thuận lợi. IV. HIỆU QUẢ DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 1. Hiệu quả kinh tế Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non. Tận dụng được vật liệu, phế thải rẻ tiền, dễ kiếm để làm thành đồ dùng đồ chơi tự tạo phục vụ việc học tập và vui chơi cho trẻ. Tôi đã làm được 27 bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho tổ chức các nội dung hoạt động, cụ thể được như sau: Làm được 05 bình tưới, 09 chậu hoa, 07 con rối, 10 dao tre, 30 cây hoa gắn chữ cái, chữ số; 15 quả bồi, 50 bông hoa, khăn múa, khăn đóng kịch các loại… thông qua việc ủng hộ của các bậc cha mẹ học sinh và do chính tôi tự tạo từ các nguyên vật liệu do cha mẹ học sinh mang đến. Tổng giá trị của các đồ dùng trên (nếu phải đi mua) là 5.790.000 đồng. (Năm triệu bảy trăm chín mươi ngàn đồng). 2. Hiệu quả xã hội Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ tuổi 4 - 5 tuổi trong năm học qua đã thu được kết quả đáng mừng. Tôi đã lồng ghép tích hợp “Giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ” trong các hoạt động trên lớp và tạo môi trường trong và ngoài lớp học được nhà trường đánh giá cao các bậc cha mẹ học sinh đồng tình ủng hộ, qua đó góp phần tuyên truyền, nâng cao sự hiểu biết của cha mẹ học sinh về cô giáo, về ngành học mầm non. Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong sạch lành mạnh, sạch đẹp, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu quả mà con người hay thiên nhiên gây nên cho môi trường. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ nhằm tạo ra thái độ, hành vi đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh. Hay là quá trình giáo dục có mục đích, nhằm phát triển ở trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường có sự quan tâm đến vấn đề môi trường phù hợp với lứa tuổi, được thể hiện qua những kiến thức, thái độ hành vi của trẻ đối với môi trường xung quanh. 14 a. Đối với trẻ Kết quả so sánh với đầu năm có sự thay đổi rõ ràng như sau Nội dung KQ khảo sát KQ cuối năm So sánh SL TL % SL TL % 25/37 67,6 35/37 94,6 Tăng 10 = 27% Trẻ biết cùng cô làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, chia sẻ hợp tác với bạn bè và cha mẹ, biết nhắc nhở bố mẹ 27/37 mang những nguyên vật liệu phế thải đến lớp để làm đồ chơi và những đồ dùng tự tạo. 73 35/37 94,6 Tăng 9 = 24,3% Trẻ có hiểu biết về môi trường sống của con người, về mối quan hệ giữa con người với động vật, thực vật. Trẻ nói được những điều 29/37 nên làm và không nên làm của con người có ảnh hưởng tới môi trường sống. 78,4 35/37 94,6 Tăng 6 = 16,2% Trẻ hào hứng tham gia các hoạt động trực nhật khi được phân công. 75,7 37/37 100 Tăng 9 = 24,3% Trẻ biết bỏ rác đúng nơi quy định 28/37 So sánh kết quả trên tôi thấy tỷ lệ trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động và thực hiện được các kỹ năng bảo vệ môi trường một cách nhanh nhẹn. Điều đó chứng tỏ các biện pháp tôi đưa cho trẻ đạt kết quả tốt. Thông qua giáo dục bảo vệ môi trường, trẻ biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe cho bản thân. Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học, biết cất đồ dùng và vật liệu gọn gàng, đúng chỗ. Trẻ biết chăm sóc cây cảnh, tưới cây góc thiên nhiên, có ý thức tốt bảo quản môi trường của lớp, của trường luôn luôn sạch đẹp…. Học sinh trong lớp, trong khối ngày càng có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường, hứng thú khi được tham gia các hoạt động về giữ gìn bảo vệ môi trường như không vứt rác khạc nhổ bừa bãi, không ngắt lá bẻ cành, tham gia chăm sóc cây, tưới cây, nhặt lá cây làm sạch sân trường. Biết cách sử dụng điện nước và tiết kiệm điện nước… b. Đối với giáo viên - Với vai trò là người giáo viên, là người hướng dẫn trẻ tôi đã được tham gia tập huấn đầy đủ, nắm chắc nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, tìm hiểu kỹ và sâu sắc những vai trò của môi trường trong cuộc sống của con người. Để từ đó tôi đã tìm ra những phương hướng, biện pháp tích cực và triệt để nhất để bảo vệ và giáo dục trẻ bảo vệ môi trường, vận dụng được các phương pháp phù hợp gắn với cuộc sống thực của trẻ. Hình thành cho trẻ những hành vi thái độ bảo vệ môi trường thường xuyên và liên tục. 15 - Luôn luôn nhận thức được bảo vệ môi trường và hướng người khác bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách. - Nhận thức đúng đắn việc sử dụng các nguồn tài nguyên (nước, điện) một cách hiệu quả hợp lý, đồng thời coi đây là quyền và nghĩa vụ của bản thân, mang lại ích lợi cho bản thân. - Luôn tìm tòi và khám phá các cách sử dụng và tái chế các nguyên vật liệu cũ để làm thành các công cụ dạy học và các đồ dùng, đồ chơi. c. Đối với cha mẹ trẻ - 100% cha mẹ học sinh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của bậc học mầm non. Thường xuyên quan tâm đến công tác này và hỗ trợ nhiệt tình các loại nguyên vật liệu phế thải cho giáo viên ở lớp. - Tích cực phối kết hợp với giáo viên trong việc nhắc nhở trẻ ý thức bảo vệ môi trường ở mọi lúc mọi nơi. Có ý thức giáo dục con em mình tự giác giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. - Biết sử dụng các nhiên liệu (Xăng, gas, điện) và các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả, tiết kiệm. - Nắm chắc kiến thức, hiểu biết cơ bản về tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe và môi trường. PHẦN KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm Từ thực tế giảng dạy và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ”, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 4 - 5 tuổi như sau: - Thường xuyên nghiên cứu tham khảo tài liệu, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Cô giáo luôn phải là tấm gương sáng về giữ gìn và bảo vệ môi trường để trẻ noi theo. - Với vai trò là người giáo viên, người hướng dẫn trẻ, tôi luôn tìm hiểu kỹ sâu sắc vai trò của môi trường trong cuộc sống của con người. Để từ đó tìm ra những phương hướng, biện pháp tích cực và triệt để nhất để bảo vệ môi trường. - Giáo viên cần phải có ý thức trong việc tự học, tự nâng cao năng lực chuyên môn. Tham khảo tài liệu sách báo, các trang mạng internet để học tập các kinh nghiệm giáo dục trẻ, sưu tầm tài liệu, tranh ảnh phục vụ trong công tác giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. - Tích cực làm đồ dùng đồ chơi tận dụng nguyên vật liệu sẵn có do cha mẹ học sinh quyên góp, hỗ trợ. - Tăng cường tuyên truyền, phối hợp với các bậc cha mẹ để thực hiện tốt công tác giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. 2. Ý nghĩa của sáng kiến trong công tác thực tiễn 16 - Cung cấp kiến thức về môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. - Giúp trẻ hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong cuộc sống hàng ngày, từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, về ý thức trách nhiệm đối với môi trường. Từ đó có thái độ, cách đối xử thân thiện với môi trường. - Giúp giáo viên có thêm kiến thức và kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non. Góp phần tuyên truyền giáo dục cho các bậc cha mẹ trẻ hiểu về giáo dục mầm non, phối hợp cùng giáo viên dạy trẻ tại gia đình. 3. Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả của sáng kiến Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ”. Đã được tổ chức áp dụng tại lớp Mẫu giáo Nhỡ B4, ......................................... trong năm học 2017-2018 và đã đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên các biện pháp trên có khả năng áp dụng đối với tất cả trẻ ở độ tuổi mầm non trên địa bàn tỉnh ............. 4. Những kiến nghị, đề xuất để triển khai, ứng dụng sáng kiến một cách có hiệu quả Để trẻ được gần gũi với thiên nhiên, khám phá thiên nhiên và để thực hiện tốt việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ tôi xin có một số đề xuất sau - Đối với nhà trường cần quan tâm và đầu tư thêm cho khuôn viên sân trường chậu hoa cây cảnh và một số đồ dùng phục vụ cho việc chăm sóc cây, trồng cây của trẻ. Tạo điều kiện về thời gian để giáo viên có thời gian tạo môi trường thiên nhiên và làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ hoạt động mọi lúc mọi nơi. - Các cấp các ngành các ngành cần quan tâm hơn nữa tới đội ngũ giáo viên. Tạo điều kiện cho chúng tôi được giao lưu học hỏi đồng nghiệp các trường bạn để từ đó có nhiều kinh nghiệm hay áp dụng vào việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi về “Một số biện pháp giáo dục ý thức Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo Nhỡ B4 - Trường mầm non ......................................, năm học 2017 - 2018”. Tôi xin trình bày để các đồng chí đồng nghiệp tham khảo góp ý kiến bổ sung để bản sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn. Kính mong Hội đồng Khoa học các cấp bổ sung, góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện, được áp dụng có hiệu quả trong và ngoài nhà trường. Xin trân trọng cảm ơn! ................, ngày 15 tháng 04 năm 2018 TÁC GIẢ SÁNG KIẾN 17 ....................... XÁC NHẬN CỦA HĐSK NHÀ TRƯỜNG CHỦ TỊCH ………………….……………………………………………………………………………………………………….. ………………….……………………………………………………………………………………………………….. ………………….……………………………………………………………………………………………………….. HIỆU TRƯỞNG Hà Thị Thịnh XÁC NHẬN CỦA HĐSK THÀNH PHỐ ................... CHỦ TỊCH ………………….……………………………………………………………………………………………………… ………………….……………………………………………………………………………………………………… ………………….……………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………………………… 18 19 Top 7 Sáng Kiến Kinh Nghiệm Bảo Vệ Môi Trường Mầm Non Ấn Tượng NhấtTrang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Top 7 Sáng Kiến Kinh Nghiệm Bảo Vệ Môi Trường Mầm Non Ấn Tượng Nhất
5 / 5 ( 2 bình chọn ) Sáng kiến kinh nghiệm bảo vệ môi trường mầm non là một phần trong phát triển chuyên môn của giáo viên mầm non. Sáng kiến kinh nghiệm giúp các thầy cô giáo nuôi dưỡng và hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên – vấn đề đang được quan tâm trên toàn cầu. Cùng Best4Team điểm qua những đề tài sáng kiến mới nhất cho lĩnh vực này qua bài viết sau. SKKN: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ trong trường mầm nonBảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu quả mà con người hay thiên nhiên gây cho môi trường. » Xem thêm
Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục có mục đích nhằm phát triển ở trẻ những hiểu biết sơ đẳng về môi trường, có sự quan tâm đến vấn đề môi trường phù hợp với lứa tuổi, được thể hiện qua những kiến thức, thái độ hành vi của trẻ đối với môi trường xung quanh. Mời các thầy cô giáo tham khảo sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ trong trường mầm non.
» Thu gọn
Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Skkn một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo trường mẫu giáo bông hồng – thành phố cà mau
Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Cà Mau, ngày 15 tháng 02 năm 2013 BÁO CÁO HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN -------Đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo Trường Mẫu Giáo Bông Hồng – Thành Phố Cà Mau” - Người thực hiện: Nguyễn Bích Thảo - Thời gian thực hiện: Từ tháng 06/10/2012 đến tháng 31/5/2013 I/ SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN: Từ xưa ông cha ta đã quan tâm đến vấn đề môi trường sống qua câu tục ngữ, thơ ca “ Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên (Điều 1 luật BVMT của Việt Nam). Mặc khác, hiện nay môi trường trên thế giới và ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nặng nề do gia tăng dân số quá nhanh, nghèo khổ và lạc hậu ở các nước đang phát triển, đô thị hóa ở nhiều nơi, khí thải công trình, nhà máy, do sự tàn phá rừng, và lượng rác thải trong sinh hoạt hàng ngày quá nhiều nhưng không được xử lý tốt. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. Vì vậy hiểu biết về môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) trở thành vấn đề hết sức cần thiết, cấp bách, có tính chiến lược toàn cầu. Các nhà khoa học đều cho rằng GDBVMT cần được quan tâm đúng mức ngay từ lứa tuổi mầm non Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 1 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo vì lứa tuổi này dễ hình thành những nề nếp thói quen, những giá trị tốt đẹp, tạo cơ sở cho việc hình thành nhân cách con người. Trước thực trạng về sự ô nhiễm môi trường ở Việt Nam nói chung, thành phố Cà mau nói riêng, ý thức bảo vệ môi trường của mọi người chưa cao, rác thải trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình, ở các trường mầm non không được phân loại và xử lý đúng lúc, đúng nơi qui định, trẻ còn vứt rác lung tung, bôi bẩn lên tường lớp học, tiểu tiện không đúng chỗ, trẻ chưa có thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân, thói quen nhặt rác, quét rác… làm mất vệ sinh và gây ô nhiễm môi trường. Đây là sự trăn trở của lãnh đạo nhà trường. Sau khi được tập huấn chính trị chuyên môn hè, được nghe các chuyên viên PGD – TPCM hướng dẫn thực hiện GDBVMT trong trường Mầm non tôi nhận thấy rằng muốn trẻ được khỏe mạnh, không bị mắc các bệnh lây truyền, cơ thể phát triển cân đối hài hòa, trẻ được sống trong một môi trường “ xanh – sạch – đẹp”, điều trước tiên phải giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ, đây là vấn đề tâm đắc cần được đào sâu nghiên cứu. Do vậy tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo trường Mẫu Giáo Bông Hồng – Thành Phố Cà Mau” làm sáng kiến kinh nghiệm nhằm giúp cho đội ngũ giáo viên, phụ huynh học sinh và cộng đồng có kiến thức cơ bản về giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia xây dựng một trường học “ Xanh- sạch – đẹp” và một xã hội trong lành. II/ PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN: Sáng kiến này được áp dụng thực hiện cho tất cả các khối lớp trường Mẫu giáo Bông Hồng - Thành phố Cà Mau trong năm học 2012 2013, và có thể áp dụng cho một số trường bạn trong Thành phố, trong tỉnh Cà Mau có đặc điểm tương tự như Trường Mẫu giáo Bông Hồng. III/ MÔ TẢ SÁNG KIẾN: Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo Những vấn đề liên quan đến giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ ở trường mẫu giáo là tình hình môi trường ở địa phương cùng cơ sở vật chất của nhà trường, số lượng trẻ và ý thức của phụ huynh dẫn đến những thuận lợi khó khăn như sau: * Thuận lợi: - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng tọa lạc trên đường Phan Ngọc Hiển – trung tâm thương mại và dịch vụ của Thành Phố Cà Mau. Trường được phòng giáo dục đào tạo thành phố Cà Mau, Đảng ủy, ủy ban phường 5 quan tâm hỗ trợ về mọi mặt, xây dựng trường lớp khang trang, sạch đẹp, trường có 9 phòng học, phòng truyền thống, phòng hiệu trưởng, 1 văn phòng, 3 khu vệ sinh. Toàn trường có 2 thùng rác lớn do công ty môi trường đô thị đặt ở nhà bếp và góc sân lớn, tất cả các phòng học, văn phòng và sân chơi đều có sọt rác nhỏ, chổi quét và cây lau được trang bị đủ. Nguồn nước đảm bảo vệ sinh được cung cấp bởi công ty nước sạch thành phố. - Đội ngũ cán bộ - giáo viên đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, tâm huyết với nghề. Ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm tạo điều kiện cho trường trong mọi hoạt động. * Khó khăn: - Diện tích phòng học nhỏ chưa đảm bảo diện tích theo qui định trường mầm non, trung bình mỗi phòng 40m2, mà số lượng học sinh quá đông bình quân mỗi lớp có gần 45 cháu, vượt xa tiêu chuẩn 35 cháu/lớp, mặc khác 2 khu vệ sinh cá nhân của trẻ tương đối nhỏ, chiếm diện tích khoảng 20m2, mỗi khu chỉ có 5 hố tiểu tiện, do đó việc chăm sóc vệ sinh và giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến kết quả chưa cao. - Đa số phụ huynh là cán bộ công chức, nhưng do cưng chiều con nên ý thức giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường còn hạn chế, nhiều phụ huynh đưa con đến lớp còn mua quà bánh trước cổng, trẻ ăn đâu ném đó trên sân trường mà phụ huynh không hề nhắc nhở. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 3 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo - Hầu hết trẻ chưa có thói quen quét rác, nhặt rác và lá cây cùng cô, cháu còn vứt rác lung tung, tiểu tiện không đúng chỗ, còn bẻ cây hái hoa khi quan sát ngoài trời, chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, khi ăn uống còn rơi vãi thức ăn, có trẻ vứt thức ăn xuống sàn nhà…vì chưa được phụ huynh quan tâm uốn nắn ở nhà. - Một số giáo viên tuy có trình độ, có tinh thần trách nhiệm cao nhưng do thói quen nên đôi lúc còn vứt rác bừa bãi, lớp học còn bám bụi và màng nhện, đồ dùng đồ chơi chưa được cọ rửa thường xuyên, chưa làm gương cho trẻ noi theo trong việc giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường. - Nhân viên cấp dưỡng trình độ thấp nên việc tiếp thu cũng như việc thực hiện giữ gìn vệ sinh BVMT còn hạn chế, rác thải nhà bếp đôi lúc chưa được xử lí kịp thời, qui trình sơ chế thực phẩm có lúc chưa đảm bảo vệ sinh. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về ý thức BVMT của giáo viên – nhân viên và trẻ ở trường. Đồng thời trong năm học này cùng với các nội dung giáo dục khác, nội dung GDBVMT là một trong những nội dung giáo dục quan trọng cần được thực hiện triệt để trong trường chúng tôi, với sự chỉ đạo của hiệu trưởng, tôi lập kế hoạch thực hiện công tác bồi dưỡng nâng cao ý thức BVMT cho giáo viên, nhân viên và trẻ bằng một số giải pháp như sau: Giải pháp 1: Công tác bồi dưỡng nâng cao ý thức GDBVMT cho giáo viên – nhân viên: Đây là công tác đặt lên hàng đầu, qua bồi dưỡng giúp giáo viên – nhân viên có được những quan điểm, những nhận thức đúng về GDBVMT, từ đó họ rèn và uốn nắn trẻ thực hiện BVMT đạt hiệu quả hơn. Để làm tốt điều này, ngay từ đầu năm học tôi đã đưa vào kế hoạch để phấn đấu thực hiện, đồng thời trong các buổi họp chuyên môn, họp tổ nuôi, tôi phát tài liệu hướng dẫn thực hiện BVMT cho từng người, triển khai làm rõ những vấn đề về ý thức BVMT và đưa ra kế hoạch thực hiện từng tháng một cách cụ thể. Hướng dẫn giáo viên – nhân viên lựa chọn nội dung GDBVMT lồng ghép tích hợp vào soạn giảng, vào các Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo hoạt động một cách hợp lí và đưa vào công tác thi đua hàng tháng, khen thưởng kịp thời những giáo viên – nhân viên thực hiện tốt công tác BVMT. Giải pháp 2: Tích hợp các nội dung hoạt động GDBVMT theo chủ đề: Căn cứ vào mục đích yêu cầu và nội dung của chủ đề, hướng dẫn giáo viên lựa chọn nội dung GDBVMT tích hợp một cách hợp lý: - Lĩnh vực con người với môi trường sống được tích hợp chủ yếu ở các chủ đề: Trường mầm non, bản thân, gia đình, nghề nghiệp, phương tiện và luật lệ giao thông. - Lĩnh vực con người với hiện tượng thiên nhiên; lĩnh vực con người với tài nguyên và lĩnh vực con người với động, thực vật được tích hợp chủ yếu ở các chủ đề: động vật, thực vật, quê hương đất nước và một số nghề. - Các nội dung GDBVMT được cụ thể hóa vào các chủ đề nhằm giúp trẻ hiểu về môi trường sống, nhu cầu của con người và sống tiết kiệm, biết cách phòng chống khi môi trường bị ô nhiễm, cách bảo vệ môi trường. - Theo từng chủ đề nhà trường phân công thay đổi cây cảnh cho phù hợp với yêu cầu chuyên môn, chăm nom tưới nước bón phân cho cây, làm vệ sinh các khu vực cho trẻ thấy được sự mới lạ, kích thích trẻ tìm tòi, học hỏi nhiều hơn. Giải pháp 3: Tích hợp các nội dung GDBVMT cho trẻ vào các hoạt động giáo dục: Để giúp trẻ tiếp thu được các nội dung GDBVMT tôi chỉ đạo giáo viên sưu tầm nghiên cứu tài liệu, lựa chọn và áp dụng một trong những phương pháp sau: *Phương pháp thực hành trải nghiệm: Đây là phương pháp dùng trò chơi vì trò chơi được sử dụng như phương pháp đặc trưng đối với trẻ mầm non, mục đích của phương pháp trò chơi là giáo dục trẻ tinh thần hợp tác. Ví dụ : - Trong lĩnh vực con người và thiên nhiên: tổ chức cho trẻ chơi với lô tô: chọn đồ dùng để tránh mưa, tránh nắng, chọn trang phục mùa đông, màu hè. Trò chơi bán hàng : bán các loại hàng để che mưa che nắng;… Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo -Trong lĩnh vực con người với môi trường: Muốn trẻ hiểu được thế nào là môi trường bẩn, môi trường sạch và biết lau rửa, quét dọn sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp, cô giáo có thể chủ động tạo ra tình huống như: làm cho môi trường lớp học bừa bộn, có nhiều giấy vụn, đồ dùng đồ sắp xếp không ngăn nắp. Giáo viên cho trẻ nhận xét môi trường lớp học sạch hay bẩn đồng thời yêu cầu trẻ đưa ra những hướng giải quyết, trẻ sẽ tự phân công công việc cho từng tổ hoặc từng cá nhân, trẻ sẽ thích thú thực hiện công việc. Sau khi lao động xong cho trẻ nhận xét, so sánh môi trường của lớp trước khi lao động và sau khi lao động. - Thông qua các trò chơi học tập: Trẻ tìm hiểu các hiện tượng trong môi trường, trẻ học so sánh, phân loại hành vi tốt, hành vi xấu đối với môi trường, phân biệt môi trường sạch, môi trường bẩn và tìm ra nguyên nhân của chúng; trẻ giải các câu đố, kể các câu chuyện về BVMT, trẻ tập diễn đạt lại các yếu tố làm cho môi trường sạch, môi trường bẩn… - Thông qua trò chơi phân vai: trẻ đóng vai và thể hiện các công việc của người làm công tác BVMT như: trồng cây, chăm sóc cây, thu gom rác, xử lý các chất thải, trong góc chơi “ Bé tập làm nội trợ” chú ý dạy trẻ tiết kiệm nước và các nguyên liệu, thu gom đồ dùng gọn gàng sau khi làm. -Thông qua hoạt động ngoài trời : giáo dục trẻ biết chăm sóc vật nuôi cây trồng, quét sân, cùng cô nhặt lá rụng bỏ vào sọt rác đúng qui định…góp phần làm cho sân trường xanh, sạch và đẹp. -Thông qua lao động tự phục vụ: Trẻ tự phục vụ tốt là việc làm có lợi cho môi trường: trẻ đi đại tiện, tiểu tiện đúng chỗ và khi đi xong biết dội nước; các đồ dùng vệ sinh được dùng và để ngăn nắp là một hành vi tốt; lớp gọn gàng; trẻ biết ăn hết suất và khi ăn không rơi vãi thức ăn là một hành vi tiết kiệm- BVMT…Điều này giúp trẻ tự khẳng định mình, nhận thức được khả năng của mình, góp phần tham gia vào hoạt động thực sự của người lớn và các bạn cùng tuổi nhằm BVMT gia đình và trường mầm non sạch, đẹp. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo -Thông qua hoạt động chăm sóc sức khỏe: hướng dẫn giáo viên chọn nội dung GDBVMT có thể là; môi trường của bé là gì? tại sao bé phải BVMT? BVMT bé phải làm gì? Nội dung GDBVMT đưa vào hoạt động có hệ thống, phù hợp với trẻ, tránh trùng lặp, không gây quá tải ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động chính. Lựa chọn thời điểm thích hợp để đưa nội dung GDBVMT cho phù hợp. Chẳng hạn tích hợp BVMT trong giờ ăn, cô trò chuyện với trẻ về vai trò thức ăn, phân loại thức ăn, ….Giáo dục trẻ thực hiện tiết kiệm, không làm đổ cơm, thức ăn xuống sàn nhà, trẻ biết tự nhặt cơm rơi vãi để vào nơi qui định, ăn xong biết tự rửa tay, đánh răng, lau miệng. * Phương pháp trò chuyện (dùng lời): - Phương pháp này giáo viên có thể đàm thoại, trò chuyện, kể chuyện, đọc thơ, giải thích…, mục đích để truyền đạt thông tin từ trẻ, đồng thời kích thích trẻ suy nghĩ, chia sẻ ý tưởng, bộc lộ cảm xúc. Ví dụ: trong lĩnh vực con người với thế giới động thực vật, để giúp trẻ nhận ra những việc làm tốt, những việc làm không tốt, kích thích trẻ suy nghĩ, bộc lộ tình cảm cô kể trẻ nghe câu chuyện “ Bác gấu đen và hai chú Thỏ”; “ hạt đỗ sót”…qua câu chuyện giúp trẻ hiểu thêm về đặc điểm tính cách của các con vật, cây cối, trẻ biết tác dụng của thực vật đối với con người, đối với môi trường, từ đó trẻ thêm yêu quí thiên nhiên. * Phương pháp trực quan minh họa: - Sử dụng phương pháp quan sát vật thật, tranh vẽ, những hoạt động của con người giúp trẻ có thái độ và biện pháp phù hợp với môi trường, với các con vật và cây cối. Ví dụ: lĩnh vực con người với thiên nhiên giáo viên có thể cho trẻ tìm hiểu về gió: quan sát biểu hiện của lá cây, cành cây, tóc, quần áo của bạn, của cô, quan sát chong chóng để nhận biết tại từng thời điểm có gió hay không có gió, hoặc cho trẻ xem ảnh, băng hình về các loại gió: gió thổi nhẹ, gió thổi mạnh và rất mạnh, kết hợp trò chuyện với trẻ. Ngoài phương pháp quan sát có thể sử dụng phương pháp thí nghiệm, mục đích của phương pháp này tạo điều kiện cho trẻ được tham gia trải nghiệm qua đó có thể cung cấp hoặc củng cố kiến thức, tuy nhiên đối với trẻ mầm non những thí nghiệm Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo chỉ là đơn giản phù hợp với khả năng của trẻ như: trong lĩnh vực con người với thế giới động thực vật tổ chức các thí nghiệm cây cần nước, ánh sáng, không khí, điều kiện cho hạt nẩy mầm… * Phương pháp dùng tình cảm và khích lệ: - Mục đích của phương pháp này là để tuyên dương, khích lệ trẻ kịp thời khi trẻ có thái độ hành vi bảo vệ môi trường. Đồng thời nhắc nhở nhẹ nhàng những hành vi chưa có lợi cho môi trường, phương pháp này có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi ví dụ: trong giờ đón trẻ, yêu cầu trẻ cất dép, túi đựng đồ dùng vào đúng nơi qui định, khi trẻ làm đúng cô động viên trẻ kịp thời để trẻ khác nghe thấy cùng làm theo, hoạt động học tập khi thấy trẻ tự nhặt giấy vụn trên nền nhà vào nơi qui định gọn gàng, ngăn nắp cô khen trẻ ngay để trẻ phấn khởi thích tham gia vào các hoạt động, nếu trẻ có hành vi không đúng cô nhẹ nhàng nhắc nhở. - Mặc khác nhận thức của trẻ mẫu giáo không dựa trên những cơ sở lý luận mà chủ yếu thông qua bắt chước. Trẻ sẳn sàng làm theo những hành động của người khác mà được trẻ cho là mới lạ, hấp dẫn. Vì vậy, để giúp trẻ có ý thức bảo vệ môi trường, bản thân mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường phải là một tấm gương trong BVMT xung quanh. Chỉ cần thấy một ai đó trong trường xả rác bừa bãi hay bẻ cây, hái hoa trong sân trường, nơi công cộng thì ý thức BVMT của trẻ dù dày công xây dựng bao nhiêu cũng có thể sụp đổ trong giây lát. Trẻ sẽ thực hiện y hệt như vậy và nếu được nhắc nhở, thậm chí la mắng, trẻ sẽ không ngần ngại nói rằng: sao (cô, bác, bạn… ) cũng làm như vậy đó. Vì vậy, các cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường cần phải được quán triệt sâu sắc ý thức gìn giữ, bảo vệ môi trường, cảnh quan để làm gương cho trẻ noi theo. Giải pháp 4: Xây dựng lớp điểm: - Để việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ đạt kết quả cao, ban giám hiệu và giáo viên nồng cốt tham dự đầy đủ các lớp tập huấn về giáo dục bảo vệ môi trường do Ngành tổ chức và sau đó tiến hành triển khai đến 100% giáo viên thực hiện. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo - Trước khi đưa GDBVMT vào sử dụng, nhà trường xây dựng cho lớp Lá A thực hiện điểm, đầu tư chuyên môn, cơ sở vật chất, trang bị mọi điều kiện cho lớp điểm, tổ chức cho giáo viên dự giờ rút kinh nghiệm, trao đổi học tập lẫn nhau, sau đó nhân rộng cho toàn trường thực hiện. Giải pháp 5: Thông qua tổ chức các hoạt động thực tiễn: - Tổ chức cho trẻ lao động vệ sinh thân thể và vệ sinh trường lớp đây là quá trình trẻ trực tiếp thực hiện BVMT và thông qua đó giúp trẻ có ý thức bảo vệ môi trường rất cao.Trước hết, cần tổ chức và hướng dẫn trẻ biết thực hiện những hành vi như vệ sinh thân thể (đánh răng, rửa mặt…), chọn chỗ sạch sẽ, thoáng mát, an toàn để chơi. Rèn cho trẻ thói quen đi vệ sinh đúng giờ, đúng chỗ và dội nước, rửa tay sau khi đi vệ sinh xong. - Hướng dẫn cho trẻ thực hiện những hành vi đơn giản như : Nhặt lá, giấy vụn, vỏ hộp sữa xung quanh lớp học và sân trường bỏ vào thùng rác đúng nơi qui định hay quét sân lớp học…trong đó lúc đầu chưa cần quan tâm nhiều vào kết quả công việc mà chú trọng vào thái độ và động tác thực hiện của trẻ khi trẻ tiến hành để qua đó giúp trẻ hình thành những thái độ và hành vi đúng. Không nên vì trẻ làm sai động tác hoặc vì trẻ làm hư hại các đồ dùng mà không để trẻ thực hiện những hành vi này. Có thể nói, ý thức bảo vệ môi trường được hình thành mạnh mẽ qua những hành động tưởng chừng như hết sức đơn giản này. Giải pháp 6: Công tác tuyên truyền: - Hướng dẫn giáo viên thực hiện tốt công tác tuyên truyền BVMT đến các bậc phụ huynh thông qua bảng tuyên truyền của lớp của trường với những hình ảnh to, rõ ràng, đẹp, phù hợp chủ đề, thu hút sự chú ý của phụ huynh. Đồng thời lồng vào các buổi họp lớp, họp phụ huynh học sinh, ngày lễ 20-11, 8-3, ngày tổng kết năm học tôi đều đưa nội dung GDBBVMT tuyên truyền đến phụ huynh để họ hiểu sâu sắc tiếp sức cùng với nhà trường giáo dục trẻ ý thức BVMT một cách hiệu quả. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo - Làm tốt công tác vận động, hỗ trợ của Phụ huynh về nguồn nguyên vật liệu thải bỏ để giáo viên tận dụng, hướng dẫn các bé làm đồ chơi đơn giản cho mình. Sưu tầm thêm các mẫu đồ chơi trên mạng internet, sách báo, tạp chí nước ngoài... để làm phong phú hơn ngân hàng đồ chơi tại lớp cho trẻ.Tạo sự hứng thú cho trẻ khi được khám phá các loại nguyên vật liệu ấy và tự tay mình làm những món đồ chơi mình thích. Tôi cho rằng làm tốt công tác này thì hiệu quả giờ học được tăng cao. - Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ “ Người người trồng cây, nhà nhà trồng cây”. Trường chúng tôi phát động phong trào “ Bé yêu cây xanh” mỗi phụ huynh hỗ trợ 1 loại cây xanh hoặc hoa kiểng ở gia đình, phụ huynh có ghi tên trẻ để trẻ theo dõi và chăm sóc như: tưới hoa, nhổ cỏ, chăm sóc cây kiểng...tạo môi trường xanh - sạch đẹp cho lớp. Giúp trẻ hiểu cây xanh rất có ích cho con người, làm giảm ô nhiễm môi trường, giảm bụi, giảm tiếng ồn, cây kiểng để trang trí tạo ra cảnh đẹp. Bên cạnh trẻ còn biết tận dụng những chiếc lá vàng, cây cỏ có trong sân trường, giáo viên hướng dẫn trẻ làm nón, làm quần áo, tạo ra những sản phẩm tạo hình, hoặc chơi bán hàng, nấu ăn,… Giáo viên giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên biết chăm sóc và bảo quản, giữ gìn môi trương thiên nhiên mà trẻ đang sống. Giải pháp 7: Phối hợp với gia đình và xã hội: - Cũng như các mặt giáo dục khác, GDBVMT cho trẻ mẫu giáo cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội. Đối với gia đình, nhà trường thông báo giáo viên phụ trách kết hợp với phụ huynh để nhắc nhở trẻ trong việc giữ gìn vệ sinh thân thể, bảo vệ cây xanh, vườn hoa và các công việc khác. Đối với xã hội, nhà trường cần phối hợp với các đoàn thể, chính quyền tổ chức các buổi tuyên truyền vận động mọi người bảo vệ môi trường để trẻ vừa có điều kiện sống tốt vừa học tập những kỹ năng bảo vệ môi trường. - Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với UBND phường 5 hỗ trợ nhà trường các thùng rác có nắp đậy, đặt nhiều ở nhiều chỗ trong sân trường, giúp cho phụ huynh và trẻ vứt rác thuận tiện. Ngoài ra Chi đoàn trường kết hợp với chi đoàn phường 5 Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo cùng tham gia tổng vệ sinh đường phố, thu gom rác, trồng cây quanh trường luôn tạo cho môi trường xanh – sạch – đẹp. IV/ KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ MANG LẠI: Trong năm học qua, với các giải pháp đã trình bày ở trên, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ ở Trường Mẫu Giáo Bông Hồng – thành phố Cà Mau đã thu lại những kết quả, hiệu quả khả quan: + Hầu hết trẻ biết thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học, biết cất đồ dùng và vật liệu gọn gàng, đúng chỗ. Không có trẻ bẻ cây, hái hoa khi được ra sân chơi hoặc hoạt động ngoài trời . + 100% trẻ ở bước đầu có ý thức bảo vệ môi trường từ những việc làm đơn giản: Trẻ biết chăm sóc cây kiểng, tưới cây góc thiên nhiên, biết quét sân, nhặt rác và lá rụng cùng với các cô… có ý thức tốt bảo quản môi trường của lớp của trường luôn xinh, luôn đẹp. + Trẻ có những thói quen tốt BVMT như ăn singum xong biết bỏ bả singum vào thùng rác, không khạc nhổ bừa bãi, đi vệ sinh đúng chỗ…, Biết tiết kiệm thức ăn, ăn hết suất, không làm rơi vãi, không bỏ thừa thức ăn, ăn xong chải răng biết tiết kiệm nước. Biết cùng cô làm đồ dùng đồ chơi từ các nguyên liệu phế thải, chia sẻ hợp tác với bạn bè và cha mẹ. Trẻ có hiểu biết về môi trường sống của con người, mối quan hệ giữa con người với động thực vật. Các nguồn tài nguyên nước, đất, không khí. + Tỉ lệ trẻ đạt “ bé khỏe, bé ngoan” cấp trường tăng từ 90 đến 95%. + Tỉ lệ trẻ mắc các bệnh lây truyền qua môi trường như: sốt xuất huyết, tả ngày càng giảm, sức khỏe của các cháu được đảm bảo để học tập và vui chơi. + Trẻ phát triển cân đối , hài hòa các mặt thể chất, tâm lý và xã hội. Hầu hết trẻ theo kịp chương trình giáo dục mầm non và tỉ lệ trẻ lớp Lá được chuẩn bị đủ điều kiện để vào lớp 1 luôn đạt 100%. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 11 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo + Đội ngũ cấp dưỡng thực hiện tốt vệ sinh bếp, VSATTP, khâu sơ chế và qui trình chế biến thức ăn luôn đảm bảo vệ sinh. Trường dược cục VSATTTP kiểm tra, đánh giá và xếp loại tốt. + Khuôn viên của nhà trường ngày càng “ xanh- sạch - đẹp” và an toàn, thoáng mát, đã góp phần rất lớn thu hút các bậc phụ huynh đưa trẻ đến trường ngày một đông hơn. V/ ĐÁNH GIÁ VỀ PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA SÁNG KIẾN: Sáng kiến “ Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng – Thành Phố Cà Mau” đã có tác động đến các cá nhân trong và ngoài nhà trường như: - Đội ngũ giáo viên được nâng cao ý thức BVMT, công tác soạn giảng và lên lớp đã lồng ghép GDBVMT và có kế hoạch hướng dẫn trẻ giữ gìn vệ sinh một cách thường xuyên liên tục. Biết vận dụng được các phương pháp phù hợp gắn với cuộc sống thực của trẻ. Hình thành cho trẻ những thái độ bảo vệ môi trường. - Nhân viên phục vụ, nhân viên cấp dưỡng đã có ý thức cao thực hiện tốt khâu vệ sinh: sân bãi, học khu, nhà vệ sinh luôn được quét dọn sạch sẽ, gọn gàng, rác thải nhà bếp luôn được xử lý kịp thời. Họ luôn là tấm gương bảo vệ, giữ gìn và xây dựng môi trường sống xanh - sạch - đẹp để các cháu noi theo. - Nâng cao được nhận thức của phụ huynh về ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ. Phụ huynh đã quan tâm hơn đến công tác này, họ nhiệt tình hỗ trợ cây kiểng cho góc thiên nhiên của lớp, nguyên vật liệu phế thải để giáo viên tận dụng làm đồ chơi cho trẻ, đồng thời đã chủ động uốn nắn con em mình cách giữ gìn vệ sinh cá nhân, VSMT ở trường cũng như ở nhà. - Các ban ngành đoàn thể, nhân dân, cộng đồng quan tâm hơn về công tác bảo vệ môi trường, cùng chung tay góp sức và điều kiện thuận lợi trang bị đầy đủ trang thiết bị cho phục vụ công tác vệ sinh, xây dựng Trường Mẫu Giáo Bông Hồng xanh sạch - đẹp hơn. Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo - Ảnh hưởng của sáng kiến không những góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mà còn tác động đến sự nhận thức của các bậc phụ huynh và toàn xã hội tham gia vào công tác bảo vệ môi trường, tăng cường thiết bị vệ sinh cho Trường Mẫu giáo Bông Hồng nhằm thực hiện tốt công tác nuôi dạy trẻ trong trường mầm non. VI/ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT: Để công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới, tôi xin có một số kiến nghị sau: - Sở giáo dục thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về GDBVMT cho giáo viên mà đặc biệt là tập huấn về phương pháp, nguyên tắc tích hợp nội dung bảo vệ môi trường, qua đó tạo điều kiện cho giáo viên được bổ sung kiến thức và giao lưu học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp nhằm nâng cao chuyên môn. - Tổ chức cuộc thi tuyên truyền viên giỏi về GDBVMT, nhằm đẩy mạnh hơn nửa công tác GDBVMT trong trường mầm non. - Tham mưu với cấp trên xây thêm khu vệ sinh cho trẻ, để công tác giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh thân thể cũng như thói quen vệ sinh đạt hiệu quả cao hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân tôi với mong muốn giáo viên, nhân viên, trẻ và phụ huynh trường thực hiện tốt công tác BVMT. Rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và hiệu quả hơn. Ý kiến xác nhận của Thủ trưởng đơn vị Ngày 20 tháng 2 năm 2013 Người báo cáo Nguyễn Bích Thảo Nguyễn Bích Thảo - Trường Mẫu Giáo Bông Hồng Trang 13 Tải về bản full Tài liệu Skkn-một số biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non
dangvantuan Báo tài liệu vi phạm Tải xuống |