So sánh thị tộc mẫu hệ và thị tộc phụ hệ

Thị tộc [còn gọi là gia tộc hay dòng tộc] [dưới một hình thức nào đó nó còn là "bè phái", "phe cánh", tiếng Anh: Clan] là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người, bao gồm tập hợp một số người cùng chung huyết thống và có ràng buộc về kinh tế [quan hệ sản xuất].

Các quan hệ sản xuất ở đây bao gồm quyền sở hữu công cộng về các tư liệu sản xuất [đất đai, đồng cỏ, rừng núi, sông ngòi, công cụ sản xuất...]. Các thành viên trong thị tộc cùng lao động chung, sử dụng các công cụ lao động chung và hưởng thụ sản phẩm làm ra theo lối bình quân.

Theo sách giáo khoa về lịch sử ở Việt Nam hiện nay [Lịch sử lớp 10 [1]] thì ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người [xã hội nguyên thủy] thị tộc tuân theo chế độ chế độ mẫu hệ. Đó là tập hợp liên kết những người cùng huyết thống tính theo dòng mẹ. Ở chế độ này, người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, trong đời sống gia đình và ngoài xã hội. Ở giai đoạn sau, chế độ công xã thị tộc chuyển dần sang giai đoạn phụ hệ, gắn liền với quá trình xuất hiện của công cụ bằng kim loại. Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển giao vai trò từ người phụ nữ sang người đàn ông, đó là kiểu gia đình hiện đại một vợ một chồng như hiện nay. Công xã thị tộc là giai đoạn quá độ từ Bầy người Nguyên thủy sang xã hội có giai cấp.

Tuy nhiên các khái niệm trình bày trong sách giáo khoa về lịch sử nói trên được khái quát từ lịch sử các vùng phát triển trên thế giới, dựa trên kiến thức có được đến giữa thế kỷ 20. Nó không được cập nhật những kết quả nghiên cứu mới về cổ nhân loại học. Trong số đó đặc biệt là đã bỏ qua những thị tộc và bộ lạc hiện còn đang sống theo lối sống cổ xưa tại các vùng chưa phát triển. Cuộc sống của những bộ lạc này cho thấy lịch sử phát triển của loài người đa dạng hơn, và không phải chỉ theo một con đường duy nhất.

Người Hadza, Maasai... ở châu Phi có lối sống săn bắt hái lượm nguyên thủy, không thay đổi trong chục ngàn năm qua. Họ tựa như những bảo tàng sống về giai đoạn cổ xưa của lịch sử loài người. Cuộc sống của họ thể hiện thị tộc giống như và kế thừa lối sống xã hội theo đàn nhỏ của linh trưởng nói chung, và điển hình là các thành viên của họ Người [Hominidae, như tinh tinh và bonobo]. Lối sống này có sự gắn kết xã hội của các thành viên kết hợp với sự phân thứ bậc của từng thành viên, trong đó thành viên khôn ngoan và khỏe mạnh hơn thì đảm nhận nhiều chức năng hơn. Nó cũng cho thấy chế độ mẫu hệ hay phụ hệ trong các dân tộc xuất hiện một cách đa dạng hơn. Ở một số dân tộc, như người Hadza, Maasai..., thì chế độ mẫu hệ không xuất hiện. Trong khi đó chế độ mẫu hệ tồn tại đến ngày ở những dân tộc như người Chăm [Việt Nam, và Đông Nam Á], người Minangkabau[2] ở tỉnh Tây Sumatra Indonesia, người Ami ở Đài Loan [3], người Kuna ở Panama và Colombia, nhiều dân tộc khác ở Ấn Độ và ở châu Phi,... Đặc biệt, người Mosuo ở vùng đông nam Himalaya thuộc tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên [Trung Quốc] duy trì lối sống mẫu hệ đa phu [nhiều chồng] [4].

  1. ^ Lịch sử lớp 10. Chương 1. Xã hội nguyên thuỷ. Bài 1. Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thuỷ.
  2. ^ Sanday, Peggy Reeves [2004]. Women at the Center: Life in a Modern Matriarchy. Cornell University Press. ISBN 0-8014-8906-7.
  3. ^ Chia-chen, Hsieh; Wu, Jeffrey [ngày 15/02/2015]. Amis remains Taiwan's biggest aboriginal tribe at 37.1% of total. FocusTaiwan.tw. The Central News Agency.
  4. ^ Lugu Lake Mosuo Cultural Development Association [2006]. The Mosuo: Matriarchal/Matrilineal Culture. Truy cập 10/10/2017.

  • Bào tộc
  • Gia tộc
  • Bộ lạc
  • Bộ tộc
  • Dân tộc
  • Sắc tộc
  • Chủng tộc
  • Huyết tộc [hay họ hàng]
  • Bầy người
  • Chiefdom
  • Tiến hóa loài người
  • Cái nôi của nhân loại
  • Tiến trình tiến hóa loài người
  • Các dòng di cư sớm thời tiền sử

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thị tộc.

Bản mẫu:Sơ sài

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thị_tộc&oldid=66875576”

Chế độ mẫu hệ hay chế độ mẫu quyền là một hình thái tổ chức xã hội trong đó người phụ nữ, đặc biệt là người mẹ, giữ vai trò lãnh đạo, quyền lực và tài sản được truyền từ mẹ cho con gái. Trước đây chế độ mẫu hệ phổ biến ở hầu hết các dân tộc trên thế giới. Điều này được giải thích là do lịch sử tiến triển của loài người, đầu tiên sống hoang dã, cộng đồng nhiều khi con cái chỉ biết đến người mẹ không bao giờ biết bố là ai. Đến khi phát triển hơn một chút thì trong cuộc sống người đàn ông chỉ giữ vai trò mờ nhạt, họ chỉ đi săn bắn đem lại số thực phẩm quan trọng nhưng bấp bênh; trong khi người phụ nữ ở nhà trồng tỉa chăn nuôi đem lại sự ổn định. Tuy nhiên khi xã hội càng phát triển thì vai trò người đàn ông càng lớn, trở thành trụ cột gia đình. Điều này giải thích vì sao hiện tại các dân tộc trên thế giới hầu hết đều chuyển sang chế độ phụ hệ, chế độ mẫu hệ chỉ còn có ở các dân tộc thiểu số, kém phát triển. Ở Việt Nam cũng vậy, chế độ mẫu hệ cũng chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc vùng cao như Tây Bắc, Tây Nguyên...Nhưng có đặc điểm rất lạ là dù theo chế độ mẫu hệ nhưng Già làng, trưởng bản luôn luôn là người đàn ông. Và người ta còn hay đùa là chính chế độ mẫu hệ mới chính xác vì cháu ngoại may ra mới chắc chắn là cháu mình.

Chế độ mẫu hệ cũng tồn tại trong xã hội của một số loài vật như ong, voi và cá voi.

Dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau [tài liệu dân tộc học, những dấu vân tay còn để lại trên đồ gốm v.v…], người ta biết rằng, ngay từ thời kì nguyên thủy con người đã có sự phân công lao động tự nhiên: săn thú là công việc nặng nhọc của đàn ông, còn phụ nữ đi hái lượm rau quả, trông nom con cái, chuẩn bị bữa ăn… Người phụ nữ quản lí và phân chia thức ăn hàng ngày cho các thành viên trong thị tộc, thực tế đều là chồng con, anh em của họ. Mặt khác, do tập quán kết hôn, bên nữ giữ quyền chủ động, con cái sinh ra chỉ biết mẹ và đều lấy theo họ mẹ. Người ta gọi đó là chế độ thị tộc mẫu hệ hay thị tộc mẫu quyền.

Công xã thị tộc mẫu hệ phát triển khi nào?

Chế độ mẫu quyền là một giai đoạn phát triển lịch sử mà nhiều dân tộc trên thế giới đều đã kinh qua. Nó đã tồn tại trong một thời gian rất dài. Bắt đầu cùng với sự xuất hiện Người tinh khôn ở thời hậu kì đồ đá cũ. Công xã thị tộc mẫu hệ là giai đoạn phát triển đầu tiên của công xã thị tộc. Nó phát triển thịnh vượng vào thời đại đồ đá giữa, vào các giai đoạn sơ và trung kì thời đại đồ đá mới và sau đó dần dần bị thay thế bởi công xã thị tộc phụ hệ ở giai đoạn hậu kì đồ đá mới.

Xem thêm các hình thức gia đình thời công xã thị tộc

Mẫu quyền

Khác với thời đại xã hội có giai cấp sau này, trong chế độ công xã thị tộc mẫu hệ, quyền của người đàn bà được biểu hiện trước hết là quyền được phân công lao động trong gia đình và quyền điều hành những công việc chung của thị tộc. Vì thế họ không những được bình đẳng, được tôn trọng mà còn có thể được bầu làm tộc trưởng, tù trưởng.

Không phải mẫu hệ thì có mẫu quyền, theo nghĩa hiện đại, trong đó, tộc trưởng luôn luôn là nữ. Có nhiều trường hợp mà việc săn bắn và chiến tranh cần thiết, thị tộc, bộ lạc vẫn bầu một người đàn ông có uy tín làm tù trưởng, tuy rằng ở đó, người mẹ, người phụ nữ cao tuổi vẫn có uy tín cao và được kính trọng.

Sự phát triển của công xã thị tộc mẫu hệ

Trong thời kì công xã thị tộc mẫu hệ, loài người đã đạt được những tiến bộ rất lớn trong tổ chức xã hội và đời sống tinh thần.

Công cụ sản xuất phát triển hơn

Từ chỗ chỉ biết sử dụng những hòn cuội tự nhiên hay chỉ biết ghè một rìa cạnh của hòn đá đổ tạo ra những chiếc rìu tay vạn năng, đến thời hậu kì đồ đá cũ, con người đã biết chọn những hạch đá có hình lăng trụ, rồi ghè thẳng theo chiều dọc tạo ra những mảnh tước dài và mỏng, có cạnh sắc. Những mảnh tước này lai được tu sửa hoặc bẻ nhỏ ra thành những công cụ đồ đá nhỏ tinh xảo và có dáng hình nhất định. Chúng lại được lắp chuôi bằng cách kẹp vào giữa hai mảnh tre hoặc gỗ rồi buộc bằng dây da, hoặc cắm hay buộc thẳng vào đầu gậy làm mũi lao, mũi giáo phóng đi rất xa. Mũi lao, mũi giáo còn được làm từ xương hoặc sừng động vật, từ cành cây đem mài hoặc đẽo nhọn đầu. Trong một số di chỉ khảo cổ, người ta đã tìm thấy những mũi lao băng xương có nhiều ngạnh, rấi lợi hai.

Từ kĩ thuật phóng lao, người nguyên thủy đã biết chế ra cung tên. Việc chế ra cung và tên là một phát minh quan trọng vì nó đánh dấu một bước tiến lớn của trình độ nhận thức của con người. Với cung tên, con người săn bắn có hiệu quả và an toàn hơn.

Đến thời đại đồ đá mới, người ta không chỉ biết ghè đẽo, mà còn biết khoan, cưa, mài đá. Những công cụ lao động, sau khi được ghè đẽo sơ qua, lại được mài nhẵn ở rìa lưỡi hay toàn thân, được khoan lỗ hay cưa thành rãnh để tra cán. Vì vậy, công cụ có hình dáng gọn đẹp và chính xác, nhiều kiểu loại thích hợp với từng công việc khác nhau. Nhờ thế mà năng suất lao động tăng lên một cách đáng kể.

Từ hái lượm chuyển sang trồng trọt, săn bắt sang chăn nuôi

Những thành tựu quan trọng nhất của thời đại đồ đá mới không chỉ thể hiện ở những bước tiến về kĩ thuật mà chủ yếu là ở chỗ: từ hái lượm, con người đã biết đến nghề trồng trọt và từ săn thú bắt đầu biết chăn nuôi gia súc. Với sự xuất hiện nghề trồng trọt và chăn nuôi, lần đầu tiên con người đã tự sản xuất ra được thức ăn, chứ không chỉ thu lượm những gì có sẵn ở thiên nhiên. Người nguyên thủy đã chuyển dần từ nền kinh tế thu lượm sang nền kinh tế sản xuất.

Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, người nguyên thủy còn biết dệt vải từ vỏ cây hoặc sợi gai, biết làm đồ gốm, biết đan lưới đánh cá bằng sợi vỏ cây và làm chì lưới bằng đất nung.

Những biến đổi hết sức quan trọng này ở thời đại đồ đá mới được gọi là cuộc “cách mạng đá mới”.

Giờ đây, đời sống của người nguyên thủy đã khấm khá hơn nhiều. Người ta đã có thể hái rau quả ở ngoài vườn về ăn, bắt gia súc ở trong chuồng để giết thịt, thức ăn dư thừa có thể để dành trong những nồi hoặc bát gốm.

Họ đã có những chiếc váy, áo bằng da thú hay bằng vải gai để che thân cho đỡ rét và để cho “đẹp”.

Chuyển từ hàng động sang “Nhà”

Nhờ có lửa và quần áo chống rét, họ không cần phải ở trong hang động nữa, mà đã ra dựng lều, định cư ở những nơi thuận tiện cho việc trồng trọt và chăn nuôi. “Nhà” của họ được làm bằng tre hoặc gỗ, phủ cỏ khô.

Người ta đã tìm thấy dấu tích của căn “lều” dựng bằng xương. Đến thời kì phát triển của công xã thị tộc mẫu hệ, người ta đã xây dựng những ngôi nhà sàn rộng lớn, làm nhà chung cho cả thị tộc. Dấu tích của những ngôi nhà chung với diện tích hàng trăm mét vuông như thế đủ được tìm thấy ở nhiều nơi thuộc Nga, Thụy Sĩ…

Đời sống tinh thần phát triển

Đời sống dư dật, con người không cần phải suốt ngày đi tìm kiếm thức ăn, mà đã có thời gian “rỗi” để “trang điểm” cho mình, để nhảy múa và sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật nguyên thủy đã ra đời và phát triển thịnh đạt dưới thời công xã thị tộc mẫu hệ.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

Video liên quan

Chủ Đề