Sự giống nhau giữa chợ và siêu thị

Academia.edu no longer supports Internet Explorer.

To browse Academia.edu and the wider internet faster and more securely, please take a few seconds to upgrade your browser.

Posted on Tháng Mười Hai 11, 2013

Siêu thị là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tồng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hoá, giá kệ siêu thị phong phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu chẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng.

Quy mô của siêu thị thì lớn hơn các cửa hàng tạp phẩm [hoặc chợ] và tương đối nhỏ hơn các trung tâm thương mại. Theo Quy chế Siêu thị, Trung tâm thương mại, Trung tâm thương mại có quy mô lớn hơn, không chỉ bao gồm các loại hình cửa hàng, cơ sở hoạt động dịch vụ mà còn bao gồm cả hội trường, phòng họp, văn phòng cho thuê…được bố chí tập trung, liên hoàn.

Hình ảnh một siêu thị ở Việt Nam

Các loại hình siêu thị Hàng hóa ở đây rất đa dạng và được chọn lọc kĩ hơn so với trong chợ hay cửa hàng tạp phẩm. Loại hình này gọi chung là siêu thị truyền thống vì ngày nay, từ “siêu thị” còn được chỉ những nơi chỉ chuyên kinh doanh một mặt hàng, một chủng loại hàng nào đó mà thôi. Ví dụ: siêu thị máy tính, siêu thị điện thoại di động, siêu thị trái cây, siêu thị điện máy, siêu thị kính thuốc… thậm chí còn có siêu thị việc làm nữa. [những cách gọi này hay được dùng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.]

Đặc trưng của siêu thị

  • Đóng vai trò cửa hàng bán lẻ: Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ – bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại. Đây là một kênh phân phối ở mức phát triển cao, được quy hoạch và tổ chức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng quy mô, có trang thiết bị và cơ sở vật chất hiện đại, văn minh, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhà nước cấp phép hoạt động.
  • Áp dụng phương thức tự phục vụ [self-service hay libre – service]: Đây là phương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra, được ứng dụng trong nhiều loại cửa hàng bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội văn minh… giữa phương thức tự chọn và tự phục vụ có sự phân biệt:
  • Phương thức thanh toán thuận tiện: Hàng hóa gắn mã vạch, mã số được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máy quét để đọc giá, tính tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Đây chính là tính chất ưu việt của siêu thị, đem lại sự thỏa mãn cho người mua sắm… Đặc điểm này được đánh giá là cuộc đại “cách mạng” trong lĩnh vực thương mại bán lẻ.
    • Tự chọn: khách hàng sau khi chọn mua được hàng hoá sẽ đến chỗ người bán để trả tiền hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bán.
    • Tự phục vụ: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc xe đẩy đem đi và thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán vắng bóng trong quá trình mua hàng.
  • Sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hoá: qua nghiên cứu cách thức vận động của người mua hàng khi vào cửa hàng, người điều hành siêu thị có cách bố trí hàng hóa thích hợp trong từng gian hàng nhằm tối đa hoá hiệu quả của không gian bán hàng. Do người bán không có mặt tại các quầy hàng nên hàng hóa phải có khả năng “tự quảng cáo”, lôi cuốn người mua. Siêu thị làm được điều này thông qua các nguyên tắc sắp xếp, trưng bày hàng hóa nhiều khi được nâng lên thành những thủ thuật. Chẳng hạn, hàng có tỷ suất lợi nhuận cao được ưu tiên xếp ở những vị trí dễ thấy nhất, được trưng bày với diện tích lớn; những hàng hóa có liên quan đến nhau được xếp gần nhau; hàng khuyến mại phải thu hút khách hàng bằng những kiểu trưng bày đập vào mắt; hàng có trọng lượng lớn phải xếp ở bên dưới để khách hàng dễ lấy; bày hàng với số lượng lớn để tạo cho khách hàng cảm giác là hàng hoá đó được bán rất chạy…
  • Hàng hóa chủ yếu là hàng tiêu dùng thường ngày như: thực phẩm, quần áo, bột giặt, đồ gia dụng, điện tử… với chủng loại rất phong phú, đa dạng. Siêu thị thuộc hệ thống các cửa hàngkinh doanh tổng hợp, khác với các cửa hàng chuyên doanh chỉ chuyên sâu vào một hoặc một số mặt hàng nhất định. Theo quan niệm của nhiều nước, siêu thị phải là nơi mà người mua có thể tìm thấy mọi thứ họ cần và với một mức giá “ngày nào cũng thấp” [everyday-low-price]. Chủng loại hàng hóa của siêu thị có thể lên tới hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn loại hàng. Thông thường, một siêu thị có thể đáp ứng được 70-80% nhu cầu hàng hóa của người tiêu dùng về ăn uống, trang phục, mỹ phẩm, đồ làm bếp, chất tẩy rửa, vệ sinh…

Trong các đặc trưng trên, phương thức bán hàng tự phục vụ và nghệ thuật trưng bày hàng hoá của siêu thị đã mở ra kỷ nguyên thương mại bán lẻ văn minh hiện đại.

Tại Việt Nam, các siêu thị phải ghi bằng tiếng Việt là SIÊU THỊ trước tên thương mại hoặc tên riêng do thương nhân tự đặt và trước các từ địa chỉ danh hay tính chất của Siêu thị. Nếu ghi thêm bằng tiếng nước ngoài, kích cỡ chữ phải nhỏ hơn kích cỡ tên tiếng Việt và phải đặt dưới hoặc sau tiếng Việt.

Nguồn: //thietbisieuthi.net.vn/496/type-57-Gi%C3%A1_k%E1%BB%87_si%C3%AAu_th%E1%BB%8B_.htm

Sự khác biệt chính: Siêu thị là các cửa hàng tạp hóa tự phục vụ lớn cung cấp cho khách hàng nhiều loại thực phẩm và đồ dùng gia đình. Các hàng hóa được tổ chức thành một định dạng lối đi có tổ chức, trong đó mỗi lối đi được đánh số hoặc dán nhãn và chỉ có hàng hóa tương tự được đặt cùng nhau. Đại siêu thị là các cơ sở bán lẻ lớn là sự kết hợp giữa siêu thị và cửa hàng bách hóa. Họ được coi là một cửa cho tất cả các nhu cầu của khách hàng. Hypermarkets về cơ bản có tất cả các hàng hóa có thể được yêu cầu bởi một người trên cơ sở hàng ngày.

Siêu thị và đại siêu thị là hai loại cửa hàng mua sắm khác nhau khá giống nhau về bản chất. Chỉ có một ranh giới tốt khác biệt giữa hai người, thường có thể gây nhầm lẫn cho nhiều người. Nhiều đại siêu thị thường bị nhầm với siêu thị và ngược lại. Siêu thị là cửa hàng tạp hóa cũng cung cấp các mặt hàng gia dụng, trong khi đại siêu thị là sự kết hợp của các cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bách hóa và cửa hàng giảm giá.

Siêu thị là các cửa hàng tạp hóa tự phục vụ lớn cung cấp cho khách hàng nhiều loại thực phẩm và đồ dùng gia đình. Các hàng hóa được tổ chức thành một định dạng lối đi có tổ chức, trong đó mỗi lối đi được đánh số hoặc dán nhãn và chỉ có hàng hóa tương tự được đặt cùng nhau. Siêu thị chứa thực phẩm tươi sống, thịt gia cầm cũng như đồ hộp và đồ hộp. Các siêu thị khá lớn so với các cửa hàng tạp hóa truyền thống, nơi mọi người có mặt sau quầy để cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa và người tiêu dùng đứng trước quầy hỏi mua hàng. Tuy nhiên, siêu thị nhỏ hơn đại siêu thị hoặc chợ lớn, về cơ bản là siêu thị kết hợp với cửa hàng bách hóa.

Các siêu thị có một định dạng đặc biệt, nơi nó cho phép người tiêu dùng đi qua các lối đi bằng cách sử dụng giỏ hàng hoặc giỏ và lấy bất cứ thứ gì họ yêu cầu. Mặc dù, các siêu thị đầu tiên không chứa thực phẩm hoặc thịt tươi, các siêu thị hiện đại có thịt, thịt gia cầm, bánh mì, các sản phẩm từ sữa và trái cây và rau quả tươi. Ngoài thực phẩm tươi và đóng hộp, siêu thị còn giữ các sản phẩm gia dụng như đồ làm sạch, đồ trẻ em, nhu cầu cho thú cưng, thuốc, dụng cụ nhà bếp, đồ sành sứ, ... Siêu thị cung cấp giá thấp và nhiều ưu đãi hoặc giảm giá cho sản phẩm của họ để thu hút người tiêu dùng. Một số thậm chí hoạt động trên tỷ suất lợi nhuận âm đôi khi để mang lại khách hàng. Các siêu thị thường nhận hàng hóa và hàng hóa với số lượng lớn từ nhà sản xuất hoặc nhà phân phối lớn để tận dụng quy mô kinh tế. Biên lợi nhuận thường rất nhỏ và giảm giá được chuyển đến khách hàng. Siêu thị cũng có thể là một phần của hệ thống chuỗi khổng lồ và có thể gần hơn với các siêu thị khác. Các siêu thị gần nhau hơn có thể tiết kiệm nhiều hơn về chi phí bằng cách chia sẻ các nhà phân phối và cắt giảm chi phí vận chuyển của họ. Các siêu thị thường là cửa hàng gạch và vữa một cấp nhưng cũng có thể bao gồm hai tầng tùy thuộc vào lượng vật tư được giữ lại.

Khái niệm về một thị trường thực phẩm rẻ tiền dựa vào giảm giá dựa trên quy mô kinh tế được phát triển bởi Vincent Astor, người sáng lập ra thị trường Astor vào năm 1915 nhưng không thể thực hiện một liên doanh thành công và đóng cửa vào năm 1917. Tự phục vụ đầu tiên Khái niệm cửa hàng tạp hóa được phát triển bởi doanh nhân Clarence Saunders, người sáng lập cửa hàng Piggly Wiggly vào năm 1916. Cửa hàng trở thành một thành công tài chính và trở thành một nhượng quyền thương mại. Dần dần, khái niệm này bắt đầu trở nên phổ biến trên toàn thế giới, với nhiều quốc gia phát triển thành lập cửa hàng tạp hóa tự phục vụ. Ở các nước đang phát triển, các cửa hàng tạp hóa tự phục vụ là một hiện tượng gần đây và chỉ nhận được sự phổ biến trong thập kỷ qua hoặc lâu hơn. Cụ thể tại các quốc gia này, nhiều siêu thị cũng cung cấp hàng hóa lỏng lẻo hoặc mở tương tự như các cửa hàng tạp hóa cũ. Mọi người có thể đo ngũ cốc, gạo và các sản phẩm chủ lực khác của chúng tôi và mua theo trọng lượng. Các siêu thị cũng đã bắt đầu cung cấp thực phẩm ăn liền như một cách để cung cấp cho khách hàng mua sắm cũng như ăn cùng một lúc. Một số siêu thị cũng có thể có ngân hàng, ATM, quán cà phê, quán nước trái cây và bất cứ thứ gì khác có thể thu hút khách hàng.

Đại siêu thị là các cơ sở bán lẻ lớn là sự kết hợp giữa siêu thị và cửa hàng bách hóa. Họ được coi là một cửa cho tất cả các nhu cầu của khách hàng. Đại siêu thị về cơ bản có tất cả các hàng hóa có thể được yêu cầu bởi một người trên cơ sở hàng ngày như quần áo, tạp hóa, thuốc, vv dưới một mái nhà. Mục đích của đại siêu thị là cho phép người tiêu dùng mua tất cả hàng hóa họ cần dưới cùng một mái nhà, loại bỏ việc phải đến nhiều cửa hàng khác nhau để mua chúng. Hypermarkets cũng cung cấp các sản phẩm như thiết bị, phần cứng, đồ làm đẹp, ảnh, đồ sành sứ, đồ điện tử, v.v ... Chúng còn được gọi là siêu thị. Đại siêu thị cũng có thể có bố cục cửa hàng đặc biệt, trong đó chúng cũng bao gồm các cửa hàng đặc biệt như tiệm, ngân hàng, cửa hàng kính mắt, v.v. Không cần thiết cho tất cả các đại siêu thị có chúng, nhưng một số thì có.

Đại siêu thị có mô hình biên doanh số cao, khối lượng bán hàng thấp, nơi khách hàng được giảm giá với hy vọng họ sẽ thu hút được nhiều người hơn. Đại siêu thị có bố cục tương tự như siêu thị, nơi mọi người được phép đi qua các lối đi của hàng hóa với giỏ hàng hoặc giỏ và chọn bất kỳ hàng hóa nào họ muốn. Bố cục hơi khác nhau, các cửa hàng đặc sản thường được đặt ở phía trước mặt sau, trong khi phần tạp hóa được đặt về phía trước của tòa nhà. Phần tạp hóa cũng có thể chiếm toàn bộ tầng dưới, với các bộ phận khác chiếm thêm tầng trên. Quần áo và các bộ phận khác thường được tách ra khỏi bộ phận tạp hóa. Quầy thanh toán được đặt về phía bên, nơi cả hai bộ phận có thể dễ dàng truy cập vào quầy. Nếu đó là một tòa nhà nhiều tầng, quầy thanh toán có thể được chia cho các tầng và phòng ban khác nhau. Bãi đậu xe thường ở trong một không gian xung quanh tòa nhà hoặc bên dưới tòa nhà. Đại siêu thị yêu cầu không gian rộng và thường chọn các khu vực ở các khu vực ngoại ô hoặc ngoại ô cần có ô tô để truy cập.

Khái niệm mở một trung tâm mua sắm một cửa được Meijer phát triển vào năm 1934; tuy nhiên, các cửa hàng đã không mở cho đến những năm 1960. Nó bao gồm một cửa hàng tạp hóa cùng với một cửa hàng sản phẩm gia dụng, nhà thuốc, bãi đậu xe ngoài đường, trạm xăng và cửa hàng quần áo. Cửa hàng Meijer đầu tiên được mở tại Grand Rapids, Michigan vào năm 1962, được đặt tên là 'Thrifty Acres'. Nó tuyên bố có bố cục 'Supercenter'. Tiếp theo là công ty châu Âu, Carrefour mở đại siêu thị của riêng mình vào năm 1963 tại Sainte-Geneviève-des-Bois, Pháp. Định dạng này trở nên rất phổ biến vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 mang đến ba đại siêu thị lớn, Wal-Mart Supercenter, Super Kmart và Target. Các bố cục siêu thị gần đây đang trở nên khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một số quốc gia cảnh giác với sự lan rộng nhanh chóng của các đại siêu thị do các cửa hàng này cung cấp mọi thứ dưới một mái nhà với giá chiết khấu. Nó đang đe dọa sự tồn tại của các doanh nghiệp và cửa hàng địa phương không thể cạnh tranh với giá được cung cấp bởi các đại siêu thị. Theo nhiều nhà phân tích, đại siêu thị hiện đang bị đe dọa bởi mua sắm trực tuyến.

Video liên quan

Chủ Đề