Sự khác nhau giữa protein hình sợi và protein hình cầu
Sự khác biệt giữa protein dạng sợi và protein hình cầu Show
1. Protein sợi là gì Protein sợi, Protein hình cầu, Cấu trúc bậc hai, Độ hòa tan, Cấu trúc bậc ba Protein sợi là gìProtein dạng sợi là protein không hòa tan có cấu trúc giống như sợi. Một tên gọi khác của protein sợi là scleroprotein . Một số ví dụ về protein sợi là collagen, elastin, actin, myosin, keratin, v.v ... Chức năng chính của protein sợi là hình thành khung cấu trúc của cơ thể như mô liên kết, sụn, dây chằng, mạch máu, phổi, tử cung, tóc, và móng tay. Do đó, các protein này cung cấp hỗ trợ cấu trúc và cơ học cho cơ thể. Hình 1: Actin và Myosin trong cơ bắp Các cấu trúc khác được hình thành bởi protein sợi là lụa và bọt biển. Protein hình cầu là gìProtein hình cầu là một protein hòa tan có cấu trúc hình cầu. Do đó, protein này là trong cấu trúc cấp ba của nó. Do khả năng hòa tan, protein hình cầu có thể được vận chuyển vào các bộ phận khác nhau của cơ thể thông qua chất lỏng cơ thể. Độ hòa tan của chúng là do các tương tác liên phân tử yếu. Hình 2: Protein hình cầu trong màng tế bào Protein hình cầu có vai trò quan trọng trong cơ thể vì chúng có liên quan đến các chức năng trao đổi chất khác nhau. Một số protein hình cầu, như enzyme, xúc tác cho các phản ứng sinh hóa; nội tiết tố điều hòa các chức năng của cơ thể, duy trì cân bằng nội môi. Các protein hình cầu giống như huyết sắc tố vận chuyển oxy. Albumin và globulin là hai loại protein hình cầu chính trong máu. Khái niệm protein?Protein là gì?Protein hay còn gọi là chất đạm. Đây được hiểu là những phân tử hoặc đại phân tử chứa một hoặc nhiều chuỗi axit amin. Protein là một chất dinh dưỡng vô cùng quan trọng với cơ thể người và động vật.
Cấu trúc của proteinDựa vào khái niệm, có thể thấy, cấu trúc protein là một hoặc nhiều chuỗi axit amin tạo thành. Đây chính là cấu trúc cơ bản của thành phần dinh dưỡng này. Các protein có cấu trúc tương đối mềm dẻo, vì thế có thể uốn, gấp mà không cần hỗ trợ. Đồng thời, cấu trúc của protein rất linh hoạt, chúng có thể thay đổi tùy thuộc vào chức năng sinh học mà chúng thực hiện. Hình cầu và sợi nhỏ hợp thành protein: đặc điểm cơ bảnBốn lớp học quan trọng nhất của hợp chất hữu cơ là một phần của cơ thể: axit nucleic, chất béo, carbohydrate và protein. Về sau này sẽ được thảo luận trong bài viết này. Bốn loại cấu trúc proteinBốn cấp độ của cấu trúc protein được phân biệt với nhau bởi mức độ phức tạp trong chuỗi polypeptit. Một phân tử protein đơn lẻ có thể chứa một hoặc nhiều kiểu cấu trúc protein: cấu trúc sơ cấp, thứ cấp, bậc ba và bậc bốn. 1. Cấu trúc chínhCấu trúc sơ cấp mô tả thứ tự duy nhất trong đó các axit amin liên kết với nhau để tạo thành protein. Protein được cấu tạo từ một bộ 20 axit amin. Nói chung, các axit amin có các đặc điểm cấu tạo sau:
Tất cả các axit amin đều có liên kết cacbon alpha với nguyên tử hydro, nhóm cacboxyl và nhóm amin. Nhóm "R" khác nhau giữa các axit amin và xác định sự khác biệt giữa các đơn phân protein này . Trình tự axit amin của protein được xác định bởi thông tin có trong mã di truyền tế bào . Thứ tự của các axit amin trong chuỗi polypeptit là duy nhất và đặc trưng cho một loại protein cụ thể. Thay đổi một axit amin đơn lẻ gây ra đột biến gen , thường dẫn đến một protein không hoạt động. Mục lục
Hóa sinhSửa đổiCấu trúc hóa học của liên kết peptide (bên dưới) và cấu trúc ba chiều của một liên kết peptide giữa alanine với một amino acid bên cạnh (bên trên)
Bài chi tiết: Hóa sinh, Amino acid, và Liên kết peptit Hầu hết các protein đều chứa một hoặc nhiều chuỗi polyme mạch thẳng cấu thành từ tập hợp 20 L-α-amino acid khác nhau. Các amino acid cấu tạo nên protein (amino acid sinh protein) có những đặc điểm cấu trúc giống nhau: đều có một α-carbon mà tại đó một nhóm amin, một nhóm carboxyl, và nhiều loại nhóm bên (side chain) khác nhau có thể liên kết vào. Chỉ có proline là khác với cấu trúc cơ bản này khi nó chứa một vòng tại điểm N-kết thúc của nhóm amin, khiến cho nửa nhóm CO–NH có hình dáng cố định là một mặt phẳng.[1] Nhóm bên của các amino acid cơ sở có tính chất và cấu trúc hóa học rất đa dạng; chính sự kết hợp và tương tác giữa các nhóm bên amino acid trong protein đã xác định cấu trúc 3 chiều và đặc tính phản ứng hóa học của protein.[2] Amino acid trong một chuỗi polypeptide được liên kết với nhau bằng liên kết peptide. Khi được liên kết trong chuỗi protein, từng amino acid được gọi là phần thừa (hay phần dư, residue), và cấu trúc liên kết một loạt các nguyên tử carbon, nitro, và oxy được gọi là mạch chính hay bộ khung protein.[3] Liên kết peptide có hai dạng cộng hưởng (resonance, hay cấu trúc mesome) góp phần tạo nên một số đặc trưng liên kết đôi và làm cản trở sự quay xung quanh trục của nó, vì vậy mà các nguyên tử carbon alpha hầu như là đồng phẳng với nhau. Hai góc nhị diện khác trong liên kết peptide xác định hình dạng cục bộ đảm nhiệm bởi khung xương protein.[4] Điểm kết thúc của protein với một nhóm carboxyl tự do được gọi là điểm kết thúc-C hoặc đầu mút cacboxy, trong khi điểm kết thúc với một nhóm amin tự do được gọi là điểm kết thúc-N hoặc đầu mút amin. Các thuật ngữ protein, polypeptide, và peptide có một chút khó hiểu và có thể mang ý nghĩa chồng lặp. Protein nói chung được sử dụng để nhắc đến những phân tử sinh học hoàn thiện trong cấu hình ổn định, trong khi peptide thường chỉ một oligome amino acid ngắn mà không có cấu trúc ba chiều ổn định. Tuy vậy, ranh giới giữa hai định nghĩa này thường không xác định rõ ràng và thường là peptide dài khoảng 20–30 amino acid.[5] Polypeptide thường muốn đề cập tới bất kỳ một mạch thẳng nào tạo nên từ amino acid, bất kể chiều dài, và thường hàm ý sự vắng mặt của một cấu hình xác định. Sự xuất hiện trong tế bàoSửa đổiCác nhà sinh học ước tính một vi khuẩn kích thước trung bình chứa khoảng 2 triệu protein trong tế bào của nó (ví dụ như E. coli và Staphylococcus aureus). Các vi khuẩn nhỏ hơn, như Mycoplasma hay spirochetes sẽ chứa ít phân tử hơn, vào cỡ 50.000 đến 1 triệu phân tử protein. Ngược lại, các tế bào nhân thực có kích thước lớn hơn và do vậy chứa nhiều protein hơn. Ví dụ, tế bào nấm men ước tính có khoảng 50 triệu protein và tế bào người có từ 1 đến 3 tỷ protein. Bộ gene của vi khuẩn mã hóa cho protein thấp hơn 10 lần so với của người (ví dụ vi khuẩn nhỏ ~1.000, E. coli: ~4.000, nấm men: ~6.000, loài người: ~20.000).[6] Nồng độ của các protein trong một tế bào có một phổ giá trị rất rộng, từ chỉ một vài phân tử cho đến hàng trăm nghìn phân tử trong một tế bào. Khoảng một phần ba tổng số protein không được sản sinh ra trong tế bào hay chỉ sinh ra trong những điều kiện nhất định. Ví dụ, trong số 20.000 protein được mã hóa bởi bộ gene ở loài người chỉ có 6.000 được phát hiện trong nguyên bào lympho.[7] Hơn nữa, số lượng protein mà bộ gene mã hóa có mối tương quan với cấu trúc phức tạp của cơ thể vật chủ. Sinh vật nhân thật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và vi rút tương ứng có trung bình 15145, 3200, 2358 và 42 protein được mã hóa trong bộ gene của chúng.[8] Mục lục
Cấu tạo hoá họcSửa đổi
|