Tài liệu: phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ------------0 O 0 ------------ Trần Thị Hoàng Yến PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ [Dùng cho hệ đào tạo từ xa - ngành Giáo dục mầm non] Vinh - 2011 1 LỜI NÓI ĐẦU Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một bộ phận của giáo dục học Mầm non. Đây là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo Giáo viên mầm non ở các hệ đào tạo. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu dạy - học và thực hành cho thầy, trò ngành giáo dục Mầm non, chúng tôi biên soạn cuốn giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cuốn giáo trình được chúng tôi biên soạn dựa trên những thành tựu nghiên cứu của các nhà sư phạm, các nhà nghiên cứu Nga và Việt Nam… với mục đích cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản, khoa học, hiện đại về phương pháp dạy nói cho trẻ từ 0 – 6 tuổi. Cuốn sách gồm 5 chương: Chương I: Những vấn đề chung về bộ môn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Chương II: Nhiệm vụ, phương pháp và các hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Chương III: Phương pháp luyện phát âm cho trẻ Chương IV: Phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ Chương V: Phương pháp dạy trẻ nói đúng ngữ pháp Chương VI: Phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc Chương VII: Phương pháp dạy trẻ làm quen chữ cái Để cuốn sách tiếp tục hoàn thiện, chúng tôi rất mong được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và anh chị em sinh viên trong quá trình sử dụng. Tác giả 2 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA BỘ MÔN 1. Đối tượng nghiên cứu Môn phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một khoa học thực hành. Nó dựa trên đặc điểm ngôn ngữ nói chung, đặc điểm tiếng mẹ đẻ nói riêng, dựa vào quy luật tâm lý của quá trình tiếp thu tiếng mẹ đẻ ở từng lứa tuổi, dựa vào nguyên lý giáo dục để xác định một cách khoa học: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, biện pháp, các hình thức và phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 0- 6 tuổi. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ có thể xem là một môn khoa học thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng. Dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học và một số ngành khoa học cơ bản khác, phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ cố gắng xác định phương hướng, nội dung, phương pháp trong việc làm cụ thể là dạy nói cho trẻ. Vậy đối tượng nghiên cứu của môn học là các quy luật hoạt động sư phạm nhằm hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nói cách khác: đó là những đặc điểm của quá trình giáo dục và dạy học trong lĩnh vực ngôn ngữ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2. Sơ lược về quá trình hình thành, xây dựng bộ môn phương pháp phát triển ngôn ngữ. Từ sau Cách mạng tháng 8, tiếng Việt đã được dùng để giảng dạy trong tất cả các môn học ở nhà trường phổ thông cũng như trường đại học. Môn tiếng Việt dần dần được hình thành ở các cấp học và ngày càng được cải tiến. Đảng, nhà nước và ngành giáo dục đã có ý thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò của tiếng Việt trong cách mạng văn hoá tư tưởng, cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục thế hệ thanh niên. Việc giảng dạy môn tiếng Việt ở nước ta từ sau cách mạng tháng 8 đến nay có thể phân ra thành 3 thời kỳ: Thời kỳ 1: Thời kỳ nghiên cứu về tiếng Việt chưa có là bao, việc giảng dạy tiếng Việt được tiến hành chủ yếu thông qua môn văn học. Cách dạy này không cung cấp cho học sinh những hiểu biết có cơ sở khoa học về hệ thống tiếng Việt. Thời kỳ 2: Khoảng từ năm 1960 trở đi là thời kỳ mà các thành tựu nghiên cứu về tiếng Việt đã khá phong phú. ở các trường đại học và cao đẳng, việc giảng dạy ngôn ngữ học ở các khoa ngữ văn đã có hệ thống và ngày càng chất lượng được nâng cao. Nhiệm vụ của môn tiếng Việt ở trường phổ thông được quan 3 niệm là cung cấp cho học sinh các tri thức về tiếng Việt và thực hành các tri thức này nhằm sử dụng tốt tiếng Việt. Tuy nhiên tình hình nói, viết tiếng mẹ đẻ của người học chưa tốt. Thời kỳ 3: Thời kỳ ý thức được sự cần thiết phải xây dựng ở Việt Nam một ngành khoa học nghiên cứu về việc dạy và học phải đưa vào chương trình giảng dạy các trường sư phạm môn phương pháp dạy tiếng Việt. Một số hội nghị khoa học ở T.W cũng như địa phương đã hướng nội dung vào việc thảo luận nâng cao chất lượng giảng dạy môn tiếng Việt ở nhà trường. Trên một số tạp chí đã xuất hiện rải rác một số bài nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy tiếng ở nhà trường. Đặc biệt có cuốn "Dạy nói cho trẻ trước tuổi cấp 1" của Phan Thiều [1979] và cuốn " Dạy trẻ phát âm đúng và làm giàu vốn từ cho trẻ" của Tạ Thị Ngọc Thanh [1980]. Tuy nhiên, nhìn chung nội dung các báo cáo khoa học, các bài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ giải thích, vận dụng các tri thức ngôn ngữ học, các thành tựu nghiên cứu về tiếng Việt vào nhà trường. Phải đến hội nghị khoa học về dạy tiếng Việt trong nhà trường tổ chức năm1982 tại trường ĐHSP Hà Nội, chuyên ngành phương pháp dạy tiếng mới được đạt ra với tư cách là một khoa học độc lập trong mối liên hệ chặt chẽ với các ngành khoa học khác như giáo dục học, tâm lý học, ngôn ngữ học... Năm 1983, Bộ giáo dục quyết định đưa vào chương trình cải cách khoa Ngữ văn các trường ĐHSP môn Phương pháp dạy học tiếng Việt. Tiếp theo đó là khoa Tiểu học, khoa Mầm non của trường đại học sư phạm Hà Nội I được thành lập và môn phương pháp dạy tiếng cũng được giảng dạy, nghiên cứu. 3. Mối liên hệ giữa môn phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ với các ngành khoa học khác a. Mối liên hệ với học thuyết Mác - Lênin về tiếng nói. Học thuyết Mác- Lênin đã chỉ ra rằng: Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động, bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động và trong cuộc sống. Ở trẻ em, ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với môi trường xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người nói và được mọi người dạy nói. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: chỉ có dựa trên học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc của ngôn ngữ, khi đó các nhà giáo dục mới có phương pháp đúng đắn nhất để hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bộ môn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dựa trên quy luật biện chứng, nhìn nhận sự phát triển ngôn ngữ của trẻ như sự chuyển đổi từ lượng thành chất. Lúc đầu ngôn ngữ của trẻ chỉ là những từ riêng lẻ xuất phát từ sự nhận thức thế giới xung quanh. Trẻ chưa thể nói thành câu hoàn chỉnh. Qua quá trình tiếp xúc với mọi người, vốn ngôn ngữ của trẻ tăng lên, trẻ học được cách nói của người lớn, lúc đó trẻ mới nói được thành câu hoàn chỉnh. Rõ ràng: Triết học Mác- Lênin là cơ sở phương pháp luận của bộ môn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mới có thể giải quyết được vấn đề cốt 4 lõi, đó là: hiểu về sự phát triển ngôn ngữ và xây dựng phương pháp phù hợp với quy luật phát triển ngôn ngữ. b. Mối quan hệ với ngôn ngữ học - Hai khái niệm ngôn ngữ và ngữ ngôn: Ngôn ngữ được dùng để chỉ một hệ thống các ký hiệu ngữ âm có ý nghĩa chung đối với một tập hợp người và có những quy tắc phát âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp thống nhất trong trong toàn bộ tập hợp người sử dụng ngôn ngữ ấy. Hoạt động ngôn ngữ là quá trình sử dụng một ngôn ngữ nào đó để giao tiếp. Hoạt động ngôn ngữ là một dạng hoạt động tâm lý, là hiện tượng có tính chủ quan. Hoạt động ngôn ngữ của một chủ thể nói năng nào đó phản ánh đặc điểm tâm lý về tính cách, sở thích về tình cảm, nói năng. Vì thế qua hoạt động ngôn ngữ các nhà khoa học nghiên cứu đặc điểm tâm lý: tư duy, tưởng tượng, chú ý, ghi nhớ…của các chủ thể hoạt động. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là dạy trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, tư duy. - Mô hình cấu trúc ngôn ngữ: Khi trẻ em học ngôn ngữ thì học cụ thể những gì? Ngôn ngữ cấu tạo từ tiểu hệ thống, bao gồm: âm thanh ngôn ngữ, ngữ nghĩa, cấu trúc ngữ pháp chung và cách thức sử dụng ngôn ngữ hàng ngày. Biết một ngôn ngữ là phải nắm vững các lĩnh vực trên và tổng hợp chúng vào hệ thống giao tiếp linh hoạt, hiệu quả. Thành tố đầu tiên là ngữ âm: đây là thành tố đầu tiên khi học một ngôn ngữ. Lĩnh hội năng lực này như thế nào là khoa học về sự phát triển ngữ âm. Mỗi ngôn ngữ có một cách thức phát âm riêng, học một ngôn ngữ là học cách thức phát âm ngôn ngữ, là học nghe âm thanh ngôn ngữ, là để hiểu ngôn ngữ. Thành tố thứ hai là ngữ nghĩa: Ở đây yêu cầu cần làm giàu vốn từ và cách thức nắm một khái niệm nào đó được diễn đạt trong một từ hay một tập hợp từ. Khi trẻ mới sử dụng từ, từ đó không có ý nghiã như giống từ như ở người lớn. Để xây dựng vốn từ đa năng, trẻ phải thấu hiểu nghĩa của hàng ngàn từ và liên kết chúng lại vào mạng lưới khái niệm có liên quan đến nhau. Lớn dần trẻ trẻ chỉ không chỉ sử dụng từ chính xác mà còn luôn có ý thức về ngữ nghĩa của các từ. Như thế trẻ luôn làm rõ nghĩa của từ và thực hiện chúng theo cách thức sáng tạo. Thành tố thứ ba là kiến thức về ngữ pháp: Khi trẻ lĩnh hội được vốn từ, trẻ bắt đầu biết liên kết các từ và biến đổi chúng theo một ý nghĩa nào đó. Kiến thức ngữ pháp bao gồm hai thanh phần: - cú pháp [những quy luật là từ được liên kết trong câu]; - hình thái học [cách thức sử dụng các quy luật ngữ pháp về thời, giống, số, thể chủ động, thể bị động]. 5 ... - tailieumienphi.vn

nguon tai.lieu . vn

* Cách thức thực hiện.

  1. Lập kế hoạch phát triển vốn từ cho trẻ.

– Phát triển vốn từ  có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của trẻ , vốn từ nghèo nàn sẽ ảnh hưởng đến giao tiếp của trẻ.

– Trong biện pháp này giáo viên cần chủ động lập kế hoạch phát triển vốn từ cho trẻ theo nội dung trẻ quan tâm hoặc chủ điểm. Vốn từ cung cấp cần tăng dần độ khó, tăng thêm về số lượng.

VD:

Tháng Nội dung vốn từ cung cấp
9 Măng cụt,sầu riêng,  thanh long, thơm, chùm, buồng, nải, mỏng, cứng, dày, thơm , không thơm, cắt, gọt, băn, chua ,ngọt, cay, đắng…….
10 Na , măng cụt, cá voi, cá sấu, chim cánh cụt, chim bồ câu, ga gô… ít hạt, nhiều hạt, sống, chín, hơi xanh, xanh lam, hồng, tím, nâu, rụng, rơi, vãi
11 Chùm ruột, dưa kim hoàng, gấc, trứng cá, non, già, tươi, héo, thối, ủng, tim tím, xanh xanh, hồng hông, chua lét, ngọt lịm….
12 …………..
01 …………
12 ………..
13 …………
04 …………

– Sau khi đã lập kế hoạch trên thì tôi sẽ  lồng ghép nội dung vốn từ cần cung cấp và các giờ học, trò chuyện đầu giờ, trong hoạt động vui chơi [ hoạt động ngoài trời].. mọi lúc mọi nơi khi có thể giao tiếp trò chuyện với trẻ [hình thức là cô đọc mẫu trẻ đọc theo]. Ngoài việc thực hiện trên lớp tôi sẽ phô tô  kế hoạch phát triển vốn từ  cho mỗi phụ huynh và kèm theo hướng dẫn thực hiện để khi về nhà bố mẹ trẻ có thể cung cấp thêm cho trẻ khi có thời gian rảnh rỗi.

  1. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc thông qua các trò chơi.

– Ngôn ngữ của trẻ có quan hệ mật thiết với các hoạt động của trẻ. Không thể phát triển ngôn ngữ cho trẻ  nếu tách rời trẻ khỏi các hoạt động. Hoạt  chủ đạo của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5 tuổi nói riêng  là hoạt động vui chơi. Chính vì thế mà tôi chọn tổ chức trò chơi là cách phát triển vốn từ, khả năng vận dụng vốn từ vào việc luyện câu cho trẻ trong nội dung nay được tổ chức thường xuyên trong lớp học của tôi. Như trò chơi dân gian, trò chơi học tập, trò chơi sáng tạo…..

VD Trò chơi học tập : chiếc túi kỳ lạ, hoặc cánh cửa thần kỳ.

Cách thức thực hiện như sau:

Cách tổ chức trò chơi:

+ Chuẩn bị : Một chiếc túi hay một chiếc hộp, và các loại đồ chơi xoong, chảo, bát, thìa…. Các loại rau củ quả…. Các con vật nuôi gà, cho, mèo… [ mỗi chủ đề giáo dục  thì chọn các loại đồ chơi tương ứng VD: chủ điểm phương tiện giao thông thì chúng ta chọn nhóm đồ chơi bỏ vào trong chiếc túi kỳ lạ là: xe máy, ô tô, máy bay…..

+ Cách chơi: Cho đồ chơi [ có thể là vật thật như: rau củ quả… ] vào trong chiếc túi [ không cho trẻ nhìn thấy] sau đó gọi trẻ lên và yêu trẻ thò tay và túi kỳ lạ dùng cảm giác của bàn tay xờ mó và kết hợp dùng lời nói miêu tả lại món đồ mà mình nắm được và phải đoán được tên của đồ vật trong túi kết hợp đem ra cho cô giáo cùng các bạn trọng lớp kiểm tra kết quả.

Như vậy qua trò chơi  “ chiếc túi kỳ lạ” trong quá trình trẻ xờ mó bằng tay và phải kết hợp lời nói để miêu tả đồ vật, thì đã kích thích trí tưởng tượng, chú ý và đặc biệt là kích thích khả năng huy động sắp xếp từ tạo câu của trẻ để diễn đạt. Qua đó ngôn ngữ của trẻ sẽ được phát triển  [ khả năng diễn đạt mạch lạc].

  1. Tăng cường dạy trẻ nghe – nói thông qua vật thật và đồ dùng trực quan.

– Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo là trực quan hình tượng, trẻ ghi nhớ và nhớ lại những sự kiện, những ấn tượng  mà trẻ đã được trải nghiệm, vì vậy lựa chọn vật thật và đồ dùng trực quan dạy trẻ phải là những đồ vật gần gũi, có ở địa phương.

– Việc dạy trẻ thông qua vật thật, vừa giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh, vừa cung cấp vốn từ cho trẻ. Cần biết lựa chọn đối tượng cung cấp gần gũi với cuộc sống trẻ, kết hợp chuẩn bị vật thật hoặc đồ dùng trực quan để trẻ quan sát, lựa chọn câu hỏi ngắn gọn, từ dễ đến khó. Khuyến khích trẻ trả lời đủ câu.

Ví dụ: Đề tài : làm quen một số loại rau [ chủ điểm: thế giới thực vật]

– Chọn đối tượng làm quen:  Các loại rau có ở địa phương như: rau cải, rau muống, rau gót, su hào…

– Số lượng làm quen : vừa phải [5- 6loại]

– Phương pháp hướng dẫn: Giáo viên chỉ vào từng loại rau và nói tên.

Ví dụ : Cô chỉ vào “củ cà rốt” cho trẻ nhắc lại “củ cà rốt” mỗi từ như vậy nhắc lại 2-3 lần. Sau khi trẻ nắm vững từ mới thì dạy trẻ nói cả câu “Đây là củ cà rốt”. sau đó đưa ra từ mệnh lệnh “để củ cà rốt” vào rổ và đặt lên bàn cho cô”. Khi trẻ thực hiện đúng yêu cầu của cô giáo có nghĩa là trẻ đã hiểu được nghĩa của từ.

– Ngoài ra tôi còn tích cực thu thập các nguyên liệu thiên nhiên và phế liệu gia đình để dạy trẻ tạo sản phẩm theo chủ để. Đưa sản phẩm của trẻ tạo ra vào các hoạt động vui chơi, học tập.

  1. Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể, đọc thơ

Đọc thơ, kể chuyện sẽ cung cấp  cho trẻ những khuôn mẫu về ngôn ngữ giúp trẻ   hiểu được nghĩa của từ  có tính trừu tượng.

VD : dũng cảm [ chú dê đen ] hay “hiếu thảo” trong truyện “ ba cô gái”.

– Dạy trẻ kể chuyện theo tranh sẽ giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ mạch lạc rèn luyện khả năng diễn đạt câu. Với hình thức này tôi sẽ tổ chức thực hiện như sau:

VD: Truyện: Tích chu

Hoạt động 1: cho trẻ làm quen với câu truyện bằng cách cô sẽ kể cho trẻ nghe 1-2 kết hợp với tranh minh họa hay mô hình câu truyện.

Hoạt động 2: Giúp trẻ nhớ, hiểu nội dung câu truyện tôi sẽ đặt ra một hệ thống câu hỏi lôgic theo diễn biến của câu truyện, và giải thích các từ khó. Như “ hóa thành chim, gian nan, ..” nhằm giúp trẻ nhớ trình tự câu truyện:

Hệ thống câu hỏi:

Truyện có tên là gi?

Trong truyện có những nhân vật nào?

Tích chu sống với ai?

Bà đối sử với tích chu thế nào?

Lớn lên tích chu thế nào?

Một hôm bà bị làm sao?

Bà gọi tích chu như thế nào?

Bà đã hóa thành con gì?

Tích chu qọi bà như thế nào?

Ai đã xuất hiện để giúp Tích chu?

Câu chuyện kết thúc thế nào?..

– Qua việc trả lời câu hỏi trẻ đã rèn được khả năng diễn đạt của mình. Nội dung này tôi sẽ ôn luyện ở mọi nơi mọi lúc để trẻ có thể nhớ cốt truyện.

Hoạt động 3: Cho trẻ kể chuyện theo tranh: yêu cầu trẻ quan sát tranh minh họa truyện và kể lại nội dung câu truyện bằng ngôn ngữ của chính mình, như vậy trẻ vừa rèn được kĩ năng vận dụng sắp xếp câu, khẳ năng ghi nhớ, khẳ năng diễn đạt ngôn ngữ …. từ đó trẻ sẽ nói mạch lạc hơn.

– Với những bài thơ, đồng giao sẽ góp phần rất lớn trong việc luyện phát âm chuẩn khả năng diễn cảm, cung cấp thêm vốn từ nghệ thuật …

VD:   Bài đồng giao:                 Đi cầu đi quán

Đi cầu đi quán

Đi bán lợn con

Đi mua cái xoong

Đem về đun nấu

Mua quả dưa hấu

Về biếu ông bà

Mua một đàn gà

Về cho ăn thóc

Mau lược chải tóc

Mua kẹp gài dầu

Đi mau về mau

Kẻo trời sắp tối

– Khi trẻ đọc bài đồng giáo trẻ có thêm từ mới: cái xoong; gài; biếu;đun nấu ..và khi trẻ đọc lặp đi lặp lại sẽ có tác dụng luyện âm, luyện tai ghe rất tốt.           – Với nhưng bài đồng giao, bài thơ tôi sẽ thường xuyên cho trẻ lớp tôi  luyện tập ở mọi lúc mọi nơi với nhiều hình thức khác nhau.

  1. Tạo ra một môi trường có tính kích thích.

– Trẻ luôn cần kích thích và việc tạo ra cho trẻ cơ hội để trẻ nhận ra bản chất sáng tạo của mình sẽ có tác dụng kích thích chúng nhiều hơn là một bức tranh hay một mô hình đồ chơi. Chúng ta có  thể giúp trẻ bằng cách tạo nhiều cơ hội cho trẻ tự khám phá những tài năng còn ẩn giấu trong trẻ.

– Với trẻ mẫu giáo thông qua việc việc đọc cho trẻ nghe chúng ta sẽ giúp trẻ nhận biết những điều điều kỳ diệu mà ngôn ngữ đem lại. VD đọc truyện, thơ cho trẻ nghe. Không chỉ thế, trẻ cũng sẽ học được rất nhiều về ngữ pháp và ngôn ngữ. Trong những quyển sách thiếu nhi, từ ngữ luôn được đi kèm với hình ảnh sinh động, vì thế trẻ sẽ dễ dàng kính thích phát triểu ngôn ngữ của mình.

 – Với tác dụng đó thì bản thân tôi luôn cố gắng tận dụng mọi thời gian mọi lúc, mọi nơi để đọc cho trẻ nghe  trong hoạt động chung có mục đích học tập như: hoạt động lam quen tác phẩm văn học, ngoài ra tôi tận dụng giờ ra chơi, lúc đón trẻ, hoạt động ngoài trời để đọc thơ và kể truyện cho trẻ nghe…

– Ở lóp học tôi đã kêu gọi phụ huynh đóng góp, sư tầm các cuốn tranh truyện nhi đồng, từ những cuốn truyện đó tôi thiết kế một góc “ thư viện nhỏ” dành cho các cháu lúc hoạt động góc, hoạt động chiều những thời gian đó trẻ có thể vào đó xem tranh ảnh, tranh truyện và qua một thời gian quan sát tôi nhận thấy trẻ rất thích thú và trẻ đã tập diễn đạt khá rõ ràng khi trẻ tự mình muốn kể lại câu chuyện theo tranh ảnh trẻ xem được.

– Bằng việc mô tả cho trẻ những gì trẻ đang làm, đang nghe và đang nhìn thấy, chúng ta sẽ giúp trẻ rất nhiều trong việc phát triển khả năng nói. Chúng ta tập cho trẻ biết mô tả hình ảnh bằng lời nói và từ đó trẻ sẽ sớm tìm cách làm điều tương tự. Đối với trẻ mẫu giáo lớp tôi thì tôi  yêu cầu trẻ hãy miêu tả những thứ xung quanh lớp học, những đồ vật trong  ngôi nhà, lớp của bé. Giáo viên cần viết ra tên của mỗi đồ vật và gắn lên đồ vật đó ở trong lớp học để khi trẻ đi qua chúng, trẻ sẽ nhận ra và ghi nhớ từ đó. Ví dụ, viết chữ “con thỏ” lên 1 mẩu giấy và gắn vào tranh “con thỏ” trẻ trong lớp học.  

– Ca hát luôn hấp dẫn trẻ thơ. Nếu trẻ đã nghe một bài hát từ trước, chúng sẽ học cách hát lại. Vì vậy bản thân tôi luôn tổ chức cho trẻ nghe hát và dạy cho trẻ hát các bài hát trong trương trình giáo dục mầm non theo nhiều hình thức khác nhau: tổ chức  trên hoạt động chung có chủ đích, mọi lúc mọi nơi…. Bằng cách  là cô hát cho trẻ nghe, cô dạy cho trẻ hát, cho che nghe băng đĩa.

Trẻ học qua thực hành vì thế tôi đã tạo thật nhiều cơ hội để trẻ phải nói đi nói lại cái đó nhiều lần và khi đã quen thuộc trẻ sẽ phát triển ngôn ngũ mạch lạc hơn. Đó có thể là những bài hát, những bài thơ, câu truyện hay những lời chỉ dẫn….

Video liên quan

Chủ Đề