Tại sao cần phải bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và đậm đà bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc.

Lễ hội phản ánh những sinh hoạt, những khát vọng cùng tài năng của nhân dân về nhiều mặt của đời sống; đồng thời, thông qua lễ hội: trí tuệ, đạo lý, tình cảm, khuynh hướng thẩm mỹ của nhân dân được tỏa sáng.

Những năm qua khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ hội đã trở thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn.

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có 7.966 lễ hội [trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam và 40 lễ hội khác].

Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan tỏa ở hầu hết các địa phương trong cả nước, đặc biệt là loại hình lễ hội văn hóa du lịch. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển những nét đẹp văn hóa truyền thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống.

Lễ hội đáp ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.

Việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ hội đã có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, tạo nguồn thu lớn bổ sung cho nguồn thu ngân sách quốc gia. Lễ hội còn góp phần tích cực trong việc giao lưu với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, với nhiều loại hình và phương thức tổ chức đa dạng lễ hội đã và đang đặt ra không ít những khó khăn, bất cập trong công tác quản lý. Nếu chỉ tính con số 50% số lễ hội được tổ chức, ước tính cứ mỗi ngày trên đất nước ta có 10 lễ hội diễn ra, đó là chưa kể đến số lượng loại hình lễ hội mới phát sinh - Vấn đề này chi phối không ít sức người, sức của, tiền bạc và thời gian của nhân dân, ảnh hưởng tới quá trình lao động sản xuất, học tập và công tác của các tầng lớp nhân dân.

Không ít những hiện tượng thiếu lành mạnh xuất hiện tại một số lễ hội đã làm phiền lòng du khách như dịch vụ khấn thuê, xóc thẻ, bán ấn, chèo kéo khách tham gia trò chơi cá cược, nâng giá dịch vụ tùy tiện... và điều đáng lo ngại nhất là sự phai mờ, xói mòn những giá trị, bản sắc của các lễ hội truyền thống.

Ở đây thách thức cơ bản không chỉ là những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường mà còn ở sự chuyển đổi các giá trị. Trong khi trước đây các giá trị tinh thần và yêu cầu thực hiện nếp sống văn minh văn hóa trong lễ hội được coi trọng thì hiện nay đã xuất hiện tư tưởng trục lợi, thương mại hóa hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá trị văn hóa truyền thống và đạo đức.

Việc phát triển loại hình lễ hội du lịch là một xu thế tất yếu, nhưng do chúng ta chưa dự báo kịp thời, chưa có sự quan tâm đúng mức, đầu tư đồng bộ và thiếu tính toán khoa học dẫn đến phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và các giá trị vốn có của các di tích.

Trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay, kế thừa truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc là yêu cầu tất yếu, song việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống phải có chọn lọc, có phê phán và có sự sáng tạo riêng. Do đó, bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị của lễ hội là một vấn đề đặt ra mang tính cấp bách và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.

Ðể công tác tổ chức lễ hội ngày càng đạt được hiệu quả cao cần chú trọng công tác tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa và tôn vinh công trạng của danh nhân được thờ để nhân dân hiểu rõ giá trị của di tích cũng như những quy định của pháp luật có liên quan, kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội, làm cho lễ hội ngày càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương.

Trước khi mở hội, phải có sự tính toán cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể. Mỗi lễ hội mới cần xây dựng một kịch bản phù hợp gắn với chủ đề riêng của lễ hội.

Ðây là vấn đề cần được khảo cứu và nghiên cứu kỹ lưỡng và có các bước thể nghiệm để định hình được các nghi thức lễ và các hoạt động hội. Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy hoạch sắp xếp các hàng quán, dịch vụ vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân dân địa phương có thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong các hoạt động dịch vụ, không tạo kẽ hở nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, làm mất đi bản sắc văn hóa và ý nghĩa, tốt đẹp của lễ hội.

Khai thác nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, đóng góp cho việc giữ gìn di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội; khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân trong các hoạt động văn hóa lễ hội.

Khuyến khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nhất là kiều bào ta ở nước ngoài đầu tư tôn tạo các di tích và tham gia hoạt động tổ chức lễ hội để hướng đồng bào về với nguồn cội, tổ tiên. Sử dụng nguồn thu từ lễ hội đúng mục đích, phục vụ tốt công tác bảo tồn di tích và hoạt động lễ hội.

Cần chú ý bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trong lễ hội, loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa mới phù hợp. Tiến hành rà soát phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý, nghiên cứu để việc tổ chức lễ hội, ngày càng khoa học, có ý nghĩa. Phục hồi những trò chơi dân gian truyền thống, coi trọng tính đặc thù, độc đáo của mỗi loại hình lễ hội, tránh cào bằng đồng loạt dẫn đến sự nhàm chán trong hoạt động và sinh hoạt lễ hội. Khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống của mỗi vùng, miền.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự khai mạc Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” năm 2021_Ảnh: TTXVN
1-Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoa va hội nhập quốc tế cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu hiện nay, yêu cầu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được đặt ra đối với bất kỳ dân tộc hay quốc gia nào trên thế giới. Trong các nghiên cứu khoa học về văn hóa, tác giả A.A. Ra-du-ghin [nhà nghiên cứu văn hóa của Nga] đã khẳng định, xu hướng hiện đại của việc suy ngẫm lại vai trò và ý nghĩa của di sản văn hóa là ở chỗ, không chỉ cố gắng giữ gìn di sản văn hóa đó ở dạng ban đầu, mà còn phải nỗ lực gắn di sản đó vào nền móng của đời sống xã hội. Tức là bản thân quá trình lịch sử của văn hóa - nghệ thuật xuất hiện ở đây không chỉ như quá trình bảo toàn quá khứ và tích lũy các giá trị văn hóa, mà còn như quá trình phát triển cái mới trong cái cũ. Như vậy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển đã được xác định có sự kế thừa và mang tính khách quan với yếu tố cốt lõi là các giá trị văn hóa.

Giá trị văn hóa còn được gọi là “vốn văn hóa” với các đặc điểm tiêu biểu là: 1- Giá trị văn hóa có khả năng bổ sung làm gia tăng giá trị kinh tế của một sản phẩm văn hóa với tư cách là loại “hàng hóa đặc thù”; 2- Giá trị văn hóa góp phần xây dựng nhân cách, điều chỉnh hành vi cá nhân làm cho nguồn nhân lực xã hội có chất lượng trí tuệ cao hơn, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội; 3- Vốn văn hóa là một bộ phận cấu thành môi trường xã hội lành mạnh - yếu tố không thể thiếu trong phát triển bền vững; 4- Một sản phẩm có hàm lượng văn hóa, trí tuệ càng cao thì giá trị hàng hóa/giá thương phẩm càng tăng.

Các di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể [lâu đài, thanh quách, đình, chua, miếu, phủ, di sản thiên nhiên, bảo vật, cổ vật...] và di sản văn hóa phi vật thể [nghệ thuật, văn chương, tri thức, kỹ năng, phong tục, tập quán, tin ngưỡng...], mang những giá trị văn hóa - vốn văn hóa đặc sắc, tiêu biểu cho lịch sử xây dựng và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Tiếp cận từ góc độ kinh tế học, các di sản văn hóa không chỉ mang giá trị văn hóa, mà còn mang giá trị kinh tế, có khả năng tạo ra lợi nhuận và sinh kế cho cộng đồng. Do đó, bảo tồn một cách bền vững và hiệu quả góp phần gia tăng giá trị của di sản văn hóa.

Trong những năm qua, các giá trị văn hóa ở nước ta, nhất là các giá trị văn hóa truyền thống, luôn được chú trọng bảo tồn và phát huy. Dù trải qua gần 2 năm bị ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19 trên toàn cầu, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vẫn đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Trong 6 tháng đầu năm 2021[1], cả nước có 23 di tích cấp quốc gia được xếp hạng, ghi danh 31 di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia[2]. Ngành văn hóa đã hoàn thiện hồ sơ gửi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc [UNESCO] đề cử di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà [tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng] ghi danh vào Danh mục di sản thế giới; đưa Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử [các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang và Hải Dương] vào danh sách dự kiến lập hồ sơ di sản thế giới. Công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số được đẩy mạnh thông qua việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

Công tác xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được thúc đẩy với việc chú trọng phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp và được triển khai với các chuẩn mực cụ thể. Công tác gia đình được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; công tác phòng, chống bạo lực gia đình được đẩy mạnh; công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức gia đình được tăng cường. Các hoạt động hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20-3, Ngày Gia đình Việt Nam 28-6 và Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình năm 2021 với chủ đềGia đình bình an - Xã hội hạnh phúc, Chương trình nghệ thuật kỷ niệm 20 năm Ngày Gia đình Việt Nam được tổ chức thành công.

Các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, các sự kiện văn hóa và biểu diễn có thu được đánh giá cao. Sáu tháng đầu năm 2021, các đơn vị nghệ thuật Trung ương đã tổ chức 186 buổi biểu diễn với 1.329.000 lượt người xem; số kinh phí ước tính từ các buổi biểu diễn có bán vé đạt 1.981.762.000 đồng.

Các tỉnh, thành phố đã tổ chức thành công các cuộc triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, trại sáng tác phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn tại địa phương. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ động phối hợp với Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam và Hội Văn học nghệ thuật các địa phương tổ chức các cuộc triển lãm mỹ thuật, triển lãm nhiếp ảnh, được đánh giá tốt ở cả trong nước và quốc tế. Công tác quản lý quyền tác giả được tăng cường. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện tốt công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên không gian mạng. Xây dựng thương hiệu quốc gia của 5 ngành: Du lịch văn hóa; điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; nghệ thuật biểu diễn; quảng cáo.

Như vậy, đánh giá một cách khách quan thì những kết quả trên đã thể hiện sự chủ động thích ứng với những khó khăn của ngành văn hóa và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay, từng bước bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra của thực tiễn. Các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam có cơ hội vượt qua thách thức, ngày càng hoàn thiện, chắt lọc các giá trị căn cốt làm nên bản sắc Việt Nam. Qua đó, góp phần rèn giũa bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn con người Việt Nam trong gian khó với tinh thần chung lưng đấu cật, “lá lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm lá rách nhiều”, tương thân, tương ái... Đó cũng chính là truyền thống quý báu, là những trầm tích văn hóa luôn không ngừng được bồi đắp, trao truyền, tiếp nối và thực hành trong đời sống xã hội qua các thế hệ của người dân Việt Nam.

Trong những năm qua, các giá trị văn hóa ở nước ta, nhất là các giá trị văn hóa truyền thống, luôn được chú trọng bảo tồn và phát huy_Ảnh: vapa.org.vn
2-Trước những yêu cầu của thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm chỉ đạo “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”[3], “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”[4]. Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước... xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh... Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[5]và “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: ... giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[6].

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp hiện nay, quán triệt phương châm hành động năm 2021 của Chính phủ là“Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển”, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện “mục tiêu kép”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch theo hướng đổi mới cách thức tiếp cận và tư duy quản lý, với tinh thần chủ động, nghiêm túc, quyết liệt, linh hoạt, tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, trong đó chú trọng cơ chế phối hợp là liên kết đa ngành, đa lĩnh vực hài hòa, không chồng chéo, coi giá trị và chuẩn mực văn hóa là nền tảng tạo ra tính bền vững của phát triển, bởi phát triển kinh tế mà không được thực thi trên nền tảng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa thì sẽ không bền vững.

Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa truyền thống phải được bảo tồn và tích hợp với giá trị của đời sống văn hóa mới, trên cơ sở phương châm làm cho con người ngày càng tốt đẹp hơn, loại bỏ những yếu tố xấu và yếu tố lạc hậu. “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”[7]. Văn hóa không chỉ là tiếp thu tinh hoa quá khứ, xử lý tốt mối quan hệ trong hiện tại, mà còn phải luôn hướng tới nền văn hóa đích thực vì sự phát triển bền vững, vì hạnh phúc của con người.

Nền tảng giá trị văn hóa Việt Nam ở phương diện quản lý nhà nước rất cần được quán triệt cụ thể, được chăm lo một cách thường xuyên, đồng bộ. Thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động này chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, bởi nhiều lý do chủ quan và khách quan. Do đó, Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cần được triển khai hiệu quả hơn, tạo nền tảng để xây dựng và hoàn thiện các giá trị văn hóa, giá trị con người. Cần tích cực hoàn thiện dự thảo, tiến tới ban hành Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, hướng đến mục tiêu khơi dậy khát vọng cống hiến vì Tổ quốc, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa và giá trị con người Việt Nam, từng bước xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước liên quan đến gia đình; thông qua các giải pháp, chương trình, dự án để góp phần làm cho gia đình phát triển bền vững, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; qua đó tạo dựng môi trường văn hóa gia đình, góp phần giáo dục nhân cách, đạo đức và các giá trị văn hóa cho các thành viên trong gia đình, cũng chính là những công dân trong xã hội. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cần tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng đi vào thực chất, nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống văn hóa phong phú, góp phần hình thành và củng cố các giá trị văn hóa và con người tốt đẹp. Các hoạt động nghệ thuật, như văn học, điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh,... cần được đẩy mạnh và có nhiều cơ chế khuyến khích để các văn nghệ sĩ phát huy sức sáng tạo, cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc, góp phần xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trương thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất,đẩy mạnh đổi mới nội dung và hình thức các hoạt động tuyên truyền quán triệt chủ# trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về văn hóa cũng như về yêu cầu bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân; qua đó tạo sự đồng thuận, đoàn kết, nâng cao hiệu quả trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Triển khai rộng khắp những nội dung đã được tuyên truyền một cách đồng bộ tới các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương tới địa phương.

Thứ hai,tiếp tục rà soát văn bản, thể chế hóa các chủ trương của Đảng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành văn hóa, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý và phối hợp liên bộ, liên ngành trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Trước tiên, cần hoàn thiện văn bản, trình Ban Bí thư phê duyệt, ban hành Chỉ thị về xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Hoàn thiện trình Quốc hội dự thảo Luật Điện ảnh [sửa đổi], dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ [phần nội dung quyền tác giả, quyền liên quan]; dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình [sửa đổi]; trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định về danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”, xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực văn hóa, quảng cáo; dự thảo Nghị định quy định về đào tạo đặc thù trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; về chế độ, chính sách đối với nghệ sĩ; về quản lý văn học; sửa đổi, bổ sung một số điều các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, thể thao, quyền tác giả, quyền liên quan. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Xây dựng Đề án ban hành Chương trình Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025; Đề án ban hành Chương trình xây dựng bản đồ số, quản lý, liên kết dữ liệu di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới; Chương trình quốc gia truyền thông, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình đến năm 2030; xây dựng các thông tư quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và định mức kinh tế - kỹ thuật trong điện ảnh. Triển khai Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 sau khi được phê duyệt. Hoàn thành Đề án “Bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021 - 2030”...

Văn hóa và hội nhập_Ảnh: vietnam.vnanet.vn
Thứ ba,chú trọng xây dựng và phát triển số hóa di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Nâng cấp hai ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam và Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, phát triển dữ liệu lớn [big data] về giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Chủ động phát triển bảo tàng ảo trên cơ sở kinh nghiệm của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam để tăng cường quảng bá các giá trị di sản văn hóa tới các du khách trên thế giới, thích ứng với bối cảnh ngành du lịch bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19. Khai thác tiềm năng kinh tế của di sản văn hóa, nhất là những di sản văn hóa đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc [UNESCO] đưa vào Danh mục theo Công ước năm 1972 và Công ước năm 2003.

Thứ tư,tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát một cách chủ động, thường xuyên công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bằng các công cụ tiên tiến của khoa học quản lý hành chính. Chú trọng hậu kiểm để tăng tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân đối với những nội dung công việc được phân công. Chỉnh sửa, rút kinh nghiệm liên tục nhằm hiệu chỉnh kịp thời, tránh gây hậu quả nghiêm trọng trong quá trình thực thi công vụ và thực hành văn hóa từ Trung ương tới địa phương.

Thứ năm,chú trọng cơ chế phối hợp trong hoạt động của ngành văn hóa các cấp. Nỗ lực tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Chủ động rà soát, kiện toàn tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc ngành văn hóa theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động. Nâng cao năng lực cán bộ các cấp, kiện toàn bộ máy nhân sự tinh gọn, phát huy vai trò, trí tuệ của tập thể gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân của từng lãnh đạo đơn vị; khơi dậy khát vọng cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa. Triển khai hiệu quả nghị quyết của Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về tiếp tục xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới; các quy định phân cấp quản lý công tác tổ chức cán bộ; quy chế đánh giá và phân loại công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; bộ tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng công chức. Xây dựng quy tắc ứng xử chung của nghệ sĩ, qua đó góp phần tạo môi trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển, góp phần phát huy các giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước./.

Theo TS. TRỊNH THỊ THỦY/Tạp chí Cộng sản

-------------------

[1] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác văn hóa, thể thao và du lịch 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2021”, Hà Nội, ngày 14-7-2021
[2] Tính đến nay đã có 395 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
[3], [4], [5]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,
tr. 110, 110, 115 – 116
[6]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Sđd, t. I, tr. 119
[7] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng:Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử,Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 3, tr. 321.

Video liên quan

Chủ Đề