Tại sao có nước giàu nước nghèo

Sự thịnh vượng có từ đâu? Tại sao có những quốc gia rất giàu, trong khi số khác lại rất nghèo? Có những nơi ban đêm rất sáng, trong khi nơi khác lại rất ít ánh đèn? Từ rất lâu, con người vẫn luôn tìm lời giải cho những câu hỏi đó.

Lý giải về nguồn gốc của sự thịnh vượng

Adam Smith đã nhìn thấy những sự đối lập đó vào năm 1776 và đưa những câu hỏi ấy vào trong cuốn sách nổi tiếng của mình “Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” [The Wealth of Nations]. Đây là cuốn sách kinh tế học hay nhất mọi thời đại. Theo Adam, mấu chốt dẫn đến sự khác biệt giữa quốc gia giàu và quốc gia nghèo rất đơn giản, đó là tự do kinh tế.

Phát biểu của Adam Smith

Điều kiện tiên quyết để đưa một quốc gia từ mức độ man rợ thấp nhất đến phồn thịnh cao nhất là không gì khác ngoài hòa bình, thuế khóa vừa phải, và một chính quyền tôn trọng công lý: mọi điều còn lại là do quá trình tự nhiên của sự vật đem tới[1]

Liệu Adam Smith đúng hay sai? Rằng việc chính phủ ít nhúng tay vào nền kinh tế sẽ mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia đó. Làm sao chúng ta kiểm chứng được điều đó?

Có một cách, đó là thông qua bảng xếp hạng tự do kinh tế toàn cầu. Bảng xếp hạng đo lường mức độ tự do kinh tế của một quốc gia thông qua các chính sách ảnh hưởng đến sự lựa chọn cá nhân, quyền tư hữu và tự do trao đổi hàng hóa. Chúng ta có thể dùng các chỉ số trong báo cáo để hình thành bảng xếp hạng toàn cầu và thấy được mối liên hệ giữa tự do và phát triển. Hiện các bạn có thể tham khảo mức độ tự do kinh tế của từng quốc gia thông qua bảng xếp hạng tự do kinh tế toàn cầu của The Heritage Foundation hoặc báo cáo của Fraser Institute.

Tự do kinh tế và tăng trưởng kinh tế, 1990 – 2010. Nguồn: Viện Fraser.

Hãy nhìn vào 4 nhóm trong bảng xếp hạng từ nhóm ít tự do nhất đến nhóm tự do nhất. Những quốc gia có chỉ số tự do kinh tế thấp nhất là những quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp nhất. Trong khi, người dân ở những quốc gia có chỉ số tự do kinh tế cao nhất có mức sống cao hơn gấp 8 lần. Qua đó ta thấy rằng, tự do kinh tế mới là chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng.

Vị trí địa lý, tài nguyên, con người có làm nên sự thịnh vượng?

Nếu bạn nghĩ rằng sự giàu có của quốc gia còn phụ thuộc vào địa lý, tài nguyên, hay con người thì hãy đặt ra trong đầu những câu hỏi sau.

1. Trữ lượng dầu của Venezuela cao gấp 12 lần Qatar, tại sao Qatar lại rất giàu trong khi người dân Venezuela bới rác mà ăn?

2. Triều Tiên và Hàn Quốc, hai quốc gia tương đồng về văn hóa, địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Nhưng thu nhập người dân Hàn Quốc cao gấp 10 lần thu nhập người dân Triều Tiên. Còn ban đêm hai quốc gia thì sao? Triều Tiên gần như không hề có ánh sáng.

3. Hay tạo sao lại sự khác biệt lớn về mức sống và dân trí giữa người Trung Hoa Đại Lục và người Hoa tại Singapore?

4. Tại sao người Việt Nam lại có nhiều cơ hội thành công hơn khi ra nước ngoài, chứ không phải ngay tại Việt Nam?

Đơn giản vì chỉ số tự do kinh tế Qatar cao hơn Venezuela, Hàn Quốc cao hơn Triều Tiên, Singapore cao hơn Trung Quốc, và nước ngoài [cụ thể là các nước tư bản] cao hơn Việt Nam. Chìa khóa của sự thịnh vượng không nằm ở con người, tài nguyên hay địa lý, mà là ở các chính sách từ chính phủ, về mức độ tự do kinh tế của người dân.

Vì thế nếu bạn muốn đất nước thịnh vượng và phát triển hơn, cái bạn cần quan tâm đó chính là tự do hóa nền kinh tế.

[1]Little else is requisite to carry a state to the highest degree of opulence from the lowest barbarism but peace, easy taxes, and a tolerable administration of justice: all the rest being brought about by the natural course of things – Adam Smith.

Có 196 quốc gia trên thế giới. 25 trong số đó rất giàu có, được định nghĩa là có thu nhập bình quân đầu người trên 100.000$ một năm. Đó là: Nhưng có những nước còn nghèo và một số thì – như chúng tôi quan sát ở đây – rất rất nghèo. Đây là 20 quốc gia nghèo nhất thế giới: nơi thu nhập bình quân đầu người của họ là dưới 1000$/năm, tức là chỉ dưới 3$ 1 người/ngày.

Tất cả các quốc gia, dù nhiều hay ít đều đang trên con đường phát triển. Nhưng tại các quốc gia nghèo thì việc này diễn ra vô cùng chậm chạp. Nếu Zimbabwe tiếp tục duy trì tỷ lệ tăng trưởng như hiện nay, nó sẽ đủ tiêu chuẩn làmột nước giàu trong 2722 năm nữa. Điều chúng ta muốn tìm hiểu thông qua bộ phim này là tại sao một số quốc gia thì thịnh vượng trong khi các quốc gia khác lại lạc hậu để từ đó hiểu được các nước giàu đang làm tốt những gìvà có cái nhìn toàn diện hơn về những thách thức và rào cản mà các nước nghèo đang phải đối mặt. Có 3 nhân tố cơ bản quyết định liệu một quốc gia sẽ giàu có hay nghèo nàn.

Nhân tố đầu tiên là THỂ CHẾ.

Thể chế vô cùng quan trọng. Nói chung thì những nước giàu có một “thể chế tốt” và những nước nghèo có một thể chế rất, rất tồi.Có sự tương quan trực tiếp giữa nghèo nàn và tham nhũng. Những nước giàu nhất trên thế giớicũng không khác quy luật trên, là những nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất. Và những quốc gia có tỷ lệ tham nhũng cao nhất thì nghèo nhất. Khi các quốc gia tham nhũng, họ không thể thu đủ thuế để có một thể chế vững mạnh. Họ cần tránh khỏi cái bẫy nghèo nàn. Một nửa của cải tại 20 quốc gia nghèo nhất đi đến các tài khoản ngân hàng tại nước ngoài. Tổng thu nhập bị sụt giảm ở các nước này khoảng 10 đến 20 tỷ $ một năm.

Trong khi đó, khi không có một hệ thống thuế hiệu quả, các nước nghèo không thể đầu tư vào hệ thống cảnh sát, giáo dục, sức khỏe, vận tải. Bây giờ, cái nhìn rộng hơn về sự tham nhũng còn thực sự nằm ở tư duy bè pháiKhi bạn thuê một ai đó để làm việc. Tại các nước giàu, bạn đơn giản chỉ dựa trên những phẩm chất, các cuộc phỏng vấn với nhiều ứng cử viên và sau đó chọn ra người giỏi nhất.mà không cần lưu tâm đến bất kỳ mối quan hệ cá nhân nào.

Nhưng tại các nước nghèo, dưới sự ảnh hưởng của tư duy bè phái, cách tiếp cận sẽ bị sai lạc đi: lúc này nhiệm vụ của bạn là lờ đi những ứng viên giỏi nhất trong hàng loạt người vô danh ứng tuyển để chọn ra những người cùng phe bạn: như chú bác, anh em, họ hàng và những người cùng bộ lạc với bạn. Kết quả là, các nước nghèo không chọn ra được những người thông minh và tài giỏi trong cộng đồng.

Nhân tố thứ 2 là VĂN HÓA – là những gì in sâu vào tâm trí, quan điểm, niềm tin của mọi người.

Một số liệu thống kê nổi bật sau đây trình bày điều liên quan đến tôn giáo. Nếu bạn có thể nói khái quát về quan hệ giữa tôn giáo và của cải thì điều đó sẽ làcàng ít người có đức tin, thì đất nước đó càng có cơ hội giàu có hơn. 19 trong số những quốc gia giàu có nhất thế giới có trên 70% dân số nói rằng tôn giáo không phải điều quan trọng đối với họ.

Trường hợp ngoại lệ ở đây là – không mấy bất ngờ – nước Mỹ, nơi có thể kết hợp giữa sự sùng bái tôn giáo với sự tạo ra của cải khổng lồ. Ngược lại, những quốc gia nghèo nhất trên thế giới cũng là những quốc gia có đức tin sâu sắc. Ở những quốc gia nghèo nhất thế giới, đơn giản là mọi người đều có đức tin. Tại sao tôn giáo lại không tốt cho việc tạo ra của cải? Bởi vì, nói chung, các tín ngưỡng có quan hệ mật thiết với ý tưởng rằng thực tại không thể thay đổi được, vậy nên con người nên tập trung vào đời sống tinh thần và hướng đến thế giới bên kia. Điều này có vẻ có ý nghĩa khi bạn sống tại một nơi như thế này.

Mặt khác, ở các nước giàu có, con người tin tưởng mạnh mẽ vào khả năng để thay đổi số mệnh của họ thông qua nỗ lực và tài năng.Thật tình cờ, để giải thích cho sự bất thường của Mỹ, tôn giáo dường như không làm chậm đisự tăng trưởng kinh tế tại đây, vì nó là một loại tôn giáo khá đặc thù: một số lượng đông đảocác tín đồ Tin Lành, thuộc mô típ đặc biệt hướng đến giàu có vật chất. Chúa của người Mỹ không muốn bạn nghĩ đến việc xây dựng một Jerusalem mới ở thế giới bên kiaMà ông ấy muốn nó ở đây và bây giờ ở Kansas hoặc Houston.

Nhân tố thứ 3 là VỊ TRÍ ĐỊA LÝ.

Các nước nghèo thường nằm ở vùng nhiệt đới. Đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cuộc sống ở những vùng này, trên nhiều phương diện rất rất khắc nghiệt. Vấn đề bắt đầu với nông nghiệp.Các loại cây trồng nhiệt đới thường khó tổng hợp cacbon hydrat. Các nước nghèo cũng thường có đất đai kém màu mỡ. Và cũng thật bất ngờlà khí hậu nhiệt đới lại có thể không thuận lợi cho việc quang hợp. Trong lịch sử, yếu tố quyết định cho khả năng một xã hội trở nên giàu có là việc sở hữu các đàn gia súc lớn [như ngựa hay trâu bò] giúp con người được giải phóngkhỏi việc cày cuốc bằng tay.

Nhưng ở vùng nhiệt đới Châu Phi, các đàn gia súc bị tiêu diệt bởi một hiểm họa tồi tệ: loài ruồi Tsetse. Loài ruồi nhỏ này – xuất hiện chỉ ở Châu Phi bởi sức nóng và độ ẩm nơi đây – hạ gục các loài động vật trên diện rộng, làm cho chúng buồn ngủ hoặc lười vận động và làm ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng của Châu Phi trong phát triển công nghệ, tăng năng suất trong nông nghiệp và tạo ra của cải. Không chỉ cây cối hay động vật ở vùng nhiệt đới phải chịu đựng. Ở những vĩ độ trung bình, con người còn dễ mắc phải nhiều loại dịch bệnh khủng khiếp bao gồm100% các quốc gia có thu nhập thấp, bị ảnh hưởng bởi ít nhất 5 loại dịch bệnh nhiệt đới cùng lúc.

Nhiệt độ lý tưởng giúp cho các nước giàu có là 16 độ C. Tuy nhiên dù có đôi chút khó chịu, việc nhiệt độ hạ xuống thấp hơn 16 độ C và thời tiết trở nên lạnh buốt theo đúng nghĩa đen, lại là nền móng của văn minh. Vị trí địa lý cũng bao gồm cả vận tải. Các nước nghèo nói chung, rất kém liên kết.

Quốc gia bị khóa kín [không tiếp giáp với biển] Bolivia và bị khóa kín 1 nửa như Paraguay là 2 nước nghèo nhất Nam Mỹ. Châu Phi chỉ có một con sông chính là có thể cho tàu bè qua lại là sông Nile và có tới 15 quốc gia bị khóa kín, 11 trong số đó có thu nhập bình quân đầu người dưới 600$/năm. Không phải ngẫu nhiên mà nước nghèo nhất châu Á, Afghanistan, cũng là một quốc gia bị khóa kín.

Tiếp đến là vấn đề về tài nguyên thiên nhiên. Những tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, kim loại quý có thể là vấn đề thực sự. Một nghịch lý là các nước nghèo có xu hướng xem chúng là quân át chủ bài. Những nguồn tài nguyên này là thứ làm các nhà kinh tế học gọi là hiệu ứng khuếch đại: chúng sẽ giúp một quốc gia với thể chế tốt giàu có hơn, nhưng với một thể chế tồi thì thậm chí nó làm quốc gia đó nghèo hơn, dồn quốc gia đó vào “cái bẫy tài nguyên” Cộng hòa Dân chủ Công Gô là một trong những quốc gia có trữ lượng quặng lớn nhất thế giới.

Quốc gia này nắm giữ hầu hết trữ lượng quặng Coltan của thế giới, thứ mà trong mỗi chiếc điện thoại di động điều có một hàm lượng nhỏ. Nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên này chỉ giúp tầng lớp chóp bu làm tiền mà không cần sự tác động của toàn xã hội. Ví dụ nếu cách duy nhất để tạo ra của cải là kết hợp công nghệ và máy móc. Bạn sẽ cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội.

Nhưng nếu bạn chỉ cần tách quặng thì bạn có thể làm với một lực lượng lao động ít ỏi, súng ống và một đường băng đủ dài để chuyển của cải kiếm được ra thị trường. Tiền từ việc bán Coltan đã giữ cho phiến quân DRC được trang bị súng ống và tham nhũng mọi tầng lớp xã hội. Vậy làm thế nào để định lượng được mức độ quan trọng của các yếu tố khác nhau này thể chế, văn hóa và vị trí địa lý trong việc xác định sự thịnh vượng của một quốc gia.

Không có một nguyên tắc cố định nào ở đây. Nhưng như một chỉ dẫn có thể đề xuất thì: 50% của cải của các quốc gia sụt giảm do thể chế 20% đến từ lý do văn hóa và 10% do vị trí địa lý, vĩ độ của đất nước, sự kết nối với phần còn lại của thế giới,và địa lý có nhiều thuận lợi. Nếu bạn là người làm chính sách, cuộc thảo luận này sẽ có một tác động lớn. Nhưng ở mức độ cá nhân thông thường, bạn có thể rút ra 2 bài học.

Thứ nhất là: hãy Khiêm Tốn: Bạn nên có một quan điểm tốt hơn về sự thành công của cá nhân bạn – nó không chỉ vì bản thân bạn làm việc chăm chỉ hoặc vì phẩm chất tốt đẹp. Nó còn đến từ xã hội bạn đang sống đã được tạo dựng qua hàng trăm năm và bây giờ bạn đang nghiễm nhiên hưởng thành quả từ đó. Và đồng thời là – Đồng Cảm: khả năng không xem các xã hội thất bại là đồ bỏ đi, mà nên hiểu rằng các quốc gia đó đang đối mặt với những vấn đề khó khăn.

Sự đồng cảm của chúng ta có thể được đề cao bằng cách suy luận rằng vấn đề của những vùng đất tuyệt vọng kia có liên quan rất nhiều với bệnh sốt rét, sự thiếu hụt những con sông giúp cho tàu bè đi lại và với những tiếng vo ve kinh hoàng của loài ruồi Tsetse – hơn là việc luôn cố gắng chỉ ra những thất bại riêng tư của con người, thứ mà bản thân chúng ta cũng không bao giờ thể hiện ra.

Theo: The school of life [số liệu năm 2014]

Video liên quan

Chủ Đề