Tại sao hitler lại tấn công châu âu trước

Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, mối quan hệ giữa Đức và Ba Lan ngày càng xấu đi, nhất là khi sức mạnh quân sự Đức gia tăng.

Trùm phát xít Hitler đã đề ra nhiều kế hoạch lớn, trong đó có việc bành trướng về phía đông, cụ thể là Ba Lan và Liên Xô.

Trước tình thế này, Ba Lan chủ trương liên minh với Pháp để chống lại Đức, thế nhưng Pháp lại tỏ ra thờ ơ.

Đây là lí do khiến Thủ tướng Ba Lan Jozef Pilsudski quyết định đàm phán với Đức, và ngày 26/1/1934, hai nước ký Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau; Ba Lan trở thành quốc gia đầu tiên thiết lập liên minh với nhà nước Đức Quốc xã. Bản Hiệp ước được coi là đã góp phần mở đường cho những bước đi tiếp theo của Hitler.

Quân Đức tấn công thủ đô Warsaw, Ba Lan năm 1939. Ảnh: Wikipedia

Năm 1938, sau khi ký với Anh-Pháp Hiệp ước Munich, Đức đem quân chiếm đóng Tiệp Khắc. Ngay sau đó, Ba Lan cũng đem quân vào vùng Teschen của Tiệp Khắc, vùng lãnh thổ mà họ đã có tranh chấp với Tiệp Khắc năm 1919. Đây là vùng lãnh thổ rộng gần 1.700km2 với 228.000 dân, trong đó có 133.000 người Séc.

Tuy nhiên sau đó, mối quan hệ giữa Đức và Ba Lan ngày càng xấu đi, nhất là khi sức mạnh quân sự của Đức ngày càng gia tăng. Đức muốn thiết lập một đường biên giới mới với Ba Lan nhằm đưa vùng Đông Phổ trở lại với nước Đức.

Vùng này vốn bị tách rời khỏi nước Đức bởi “Hành lang Ba Lan”, còn gọi là “Hành lang Danzig”-cung cấp cho Ba Lan lối ra biển Baltic, do đó chia phần lớn Đức khỏi Đông Phổ. Đức còn muốn giành quyền kiểm soát thành phố Danzig. Đây vốn là vùng đất của đế quốc Đức, nhưng do Đức thua trận trong Thế chiến I nên chuyển sang thuộc quyền quản lý của Hội Quốc Liên. Từ đầu thập niên 1930, các cuộc tranh chấp và xô xát diễn ra ngày càng thường xuyên giữa người Đức và người Ba Lan sống tại đây.

Đức liên tục đưa ra cho Ba Lan nhiều yêu sách về vùng Danzig trong đó có việc xây dựng một tuyến đường sắt nối Đông Phổ và phần còn lại của nước Đức, chạy ngang qua hành lang Ba Lan. Ba Lan từ chối các yêu sách này vì không tin tưởng vào Đức, cũng như lo sợ sẽ chịu chung số phận với Tiệp Khắc.

Mặt khác, Ba Lan biết rằng không thể đơn phương chống lại Đức nên đã cầu viện đến sự giúp đỡ của Anh và Pháp. Còn Anh-Pháp vào thời điểm đó vẫn tiếp tục đeo đuổi chính sách thoả thiệp với Đức nhằm tránh một cuộc chiến tranh có thể xảy ra.

Nhưng trước sức ép chính trị dữ dội cộng với những lo sợ trước sự bành trướng của Đức nên hai nước này đã quyết định cô lập Đức, bằng cách tạo ra một khối liên minh với Ba Lan, Latvia, Litva, Estonia, Romania, đồng thời  tuyên bố về sự đảm bảo của cả Anh và Pháp đối với nền độc lập Ba Lan.

Hành động này của Anh-Pháp khiến Hitler vô cùng giận dữ, và mối quan hệ thân thiện giữa Đức và Ba Lan chính thức kết thúc vào ngày 28/4/1939 khi Đức tuyên bố xoá bỏ Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau ký năm 1934.

Ngày 10/5/1939, Hiệp định tương trợ Pháp-Ba Lan được ký kết. Sau đó, ngày 25/8, Hiệp định tương trợ lẫn nhau giữa Anh và Ba Lan ra đời. Trong khi đó, cuộc đàm phán của Anh-Pháp với Liên Xô nhằm đối phó với Đức bị trì hoãn và kéo dài mà không thu được kết quả do sự nghi kỵ lẫn nhau giữa các bên, đặc biệt là thái độ lừng chừng của Anh.

Trong tình hình đó, Đức rốt ráo tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình với Liên Xô. Kết quả, Hiệp ước không xâm phạm Xô-Đức được ký kết ngày 23/8 tại Moscow, trong đó Liên Xô chấp nhận vai trò trung lập trong cuộc xung đột Đức-Ba Lan. Đổi lại, Liên Xô được thu hồi vùng Tây Belarus, Tây Ukraina bị Ba Lan chiếm năm 1921 và được quyền có ảnh hưởng đối với Phần Lan, Estonia, Litva, Latvia, Bessarabia.

Ngày 29/8, Đức trao cho Ba Lan tối hậu thư với yêu sách đòi Danzig trở lại và xoá bỏ "Hành lang Ba Lan". Chính phủ Ba Lan thẳng thừng từ chối. Ngày 30/8, hải quân Ba Lan tiến hành chiến dịch Peking, di tản hạm đội của mình đến Anh để tránh bị hải quân Đức bao vây phong tỏa.

Cùng ngày, Ba Lan ra lệnh tổng động viên quân đội. Tuy nhiên, dưới sức ép của Pháp vốn vẫn hy vọng vào một giải pháp ngoại giao, đã phải thu hồi lệnh trên mà không biết rằng Đức đã hoàn thành tổng động viên và tập trung quân để đánh vào Ba Lan.

Đêm 31/8/1939, một đơn vị quân Đức mặc sắc phục Ba Lan tấn công vào trạm phát thanh tại thành phố biên giới Gleiwitz thuộc Thượng Silesia rồi dùng tiếng Ba Lan loan báo "Thời điểm thanh toán người Đức đã đến". Hitler ngay lập tức lấy cớ nước Đức bị tấn công, đã ra lệnh tấn công Ba Lan vào rạng sáng hôm sau, 1/9/1939.

22/6/1941, hơn 2,6 triệu quân Đức Quốc xã với 3.350 xe tăng tràn vào lãnh thổ Liên Xô, khởi đầu phần khốc liệt và đẫm máu nhất của Đệ nhị Thế chiến - cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.

  • Trên lằn ranh của vĩ đại và suy vong
  • Có một chữ Nếu không bao giờ xảy ra

Đến ngày 3/7, sau khi xem báo cáo chiến sự và thấy quân đội Đức Quốc xã đã tiến đến tận bờ sông Dnieper, ngay cả tướng Franz Halder - Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh quân đội tối cao [OKH], người trực tiếp chỉ đạo việc lập kế hoạch Barbarossa, một vị tướng khá thận trọng - cũng tin rằng "chỉ thêm ít ngày nữa, mọi chuyện sẽ xong xuôi". Nhưng, sau đó, tất cả đã biến chuyển theo một chiều hướng khác.   

Bên sông Dnieper

Franz Halder có cơ sở thực tế cho niềm tin ấy, chứ không phải một niềm tin mang tính chất "duy ý chí" như Adolf Hitler vẫn thường có. Ông ta ghi lại trong nhật ký: "Hồng quân đã bị bất ngờ về chiến thuật trên toàn trận tuyến. Tất cả các cây cầu đều còn nguyên vẹn. Tại mọi điểm dọc biên giới, Liên Xô đã không dàn quân để tác chiến, và đều bị áp đảo trước khi có thể tổ chức phản công. Hàng trăm máy bay của họ bị phá hủy trước khi có thể cất cánh".

Vào ngày 22/6/1941 ấy, tình thế của Hồng quân có thể được cô đọng trong một câu chuyện khác, được ghi ở nhật ký của một sĩ quan Đức khác - Tướng Guenther Blumentritt: Lúc bình minh, những đài thông tin Đức bắt được tín hiệu vô tuyến của Hồng quân: "Chúng tôi đang bị bắn. Chúng tôi phải làm gì?". Và câu trả lời từ Tổng hành dinh: "Các anh điên rồi. Mà tại sao các anh không mã hóa tín hiệu?".

Trong vòng vài ngày, hàng chục nghìn tù binh Liên Xô bị bắt; nguyên từng đại đoàn bị bao vây, cô lập. Đến đầu tháng 7/1941, ở phía nam, Tập đoàn quân do Thống chế Von Rundstedt chỉ huy gồm 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới, 4 sư đoàn sơn cước và 5 sư đoàn thiết giáp đã đến bờ sông Dnieper, áp sát Kiev.

Đến giữa mùa thu năm 1941, quân đội Đức Quốc xã vẫn chứng tỏ được sức mạnh vượt trội.

Trong vòng một tuần sau, Tập đoàn quân phía Bắc của thống chế Von Leeb [gồm 21 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp] đã băng qua các nước cộng hòa vùng Baltic, hướng thẳng đến Leningrad. Còn ở chính diện, Tập đoàn quân trung tâm do Thống chế Von Bock chỉ huy [gồm 30 sư đoàn bộ binh cùng 15 sư đoàn thiết giáp - cơ giới] đã tiến hết 700 km từ đông bắc Ba Lan đến tận Smolensk, chỉ còn cách Moskva 320 km.

Một trận tuyến trải dài 1.600 km từ biển Baltic phía Bắc đến Hắc Hải phía Nam đã hình thành. Adolf Hitler tự tin đến nỗi, vào ngày 14/7, ra chỉ thị rằng nước Đức Quốc xã "chuẩn bị có thể giảm sức mạnh quân đội một cách đáng kể trong tương lai gần", và "việc sản xuất vũ khí có thể tập trung vào chiến hạm cho hải quân, cũng như đặc biệt là máy bay cho không quân", để "tiến hành cuộc chiến với kẻ thù cuối cùng còn sót lại [ở châu Âu] là Anh quốc, cũng như để chống lại nước Mỹ nếu cần thiết".

Thậm chí, đến cuối tháng 9, ông ta còn bắt đầu cân nhắc việc cho giải ngũ 40 sư đoàn bộ binh, để có thêm nhân lực làm việc trong các ngành công nghiệp.

Đến tận khi ấy, mùa thu vẫn chưa quay lại, và mùa đông khủng khiếp của nước Nga vẫn còn ở rất xa. Bên kia đại dương, ngay trong tháng 7, giới báo chí Mỹ đã được chia sẻ thông tin từ quân đội [để thông tin lại cho độc giả] rằng Liên Xô sẽ sụp đổ trong vòng vài tuần.

Tuy nhiên, thực tế là sau đó, các binh đoàn Quốc xã không duy trì được tốc độ tàn phá như hồi cuối tháng 6 nữa. Thực tế là đến khi ra tòa án binh Nuremberg sau chiến tranh, Thống chế Von Rundstedt nói thẳng: "Chẳng bao lâu sau khi tấn công, tôi nhận ra rằng những gì đã được nghe về nước Nga đều là xằng bậy".

Nhưng Adolf Hitler đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Liên Xô, và tỏ ra quá tham lam.

Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan

Không gì có thể phủ nhận được: Nguyên nhân chính khiến cỗ máy chiến tranh ấy buộc phải khựng lại và bất lực nhìn mùa đông khủng khiếp của nước Nga ập tới khi không được trang bị đầy đủ nhu yếu phẩm, là tinh thần chiến đấu quật cường và sức phản kích dữ dội từ Hồng quân Liên Xô.

Bất kể việc đã mất hàng chục sư đoàn trong những ngày đầu chiến tranh bùng nổ, bất kể việc phải đau đớn nhìn những mảng lớn lãnh thổ bị giày xéo dưới gót giày xâm lược, bất kể sự thua kém rõ rệt về kỹ năng tác chiến, Hồng quân cuối cùng vẫn đứng vững, không chỉ ở phòng tuyến trung tâm - nơi "Moskva đã ở ngay phía sau lưng".

Song song với báo cáo của các tư lệnh chiến trường, như đại tướng thiết giáp Heinz Guderian, về những cuộc đụng độ dữ dội gây thiệt hại nặng nề cho cả hai phía, tướng Blumentritt cũng ghi lại: "Tinh thần chiến đấu của Hồng quân, ngay cả ở một trong những trận đánh đầu tiên như Minsk, cũng hoàn toàn khác hẳn so với quân Ba Lan hay những nước Đồng Minh phía Tây. Kể cả khi bị bao vây, quân Nga vẫn trụ vững mà chiến đấu".

Khi hậu phương ở quá xa tiền tuyến, và tiền tuyến thì cũng quá xa hậu phương địch thủ, không quân Đức không còn đủ tiềm lực áp chế. Trong khi đó, sự xuất hiện của những chiếc xe tăng T-34 cũng là một điều bất ngờ ngáng trở sức mạnh tưởng như vô địch của thiết giáp Đức.

Tướng Franz Halder - người lưu giữ khá nhiều tư liệu quý giá trong nhật ký của mình.

Nhưng, ngay trong bối cảnh ấy - bối cảnh khó khăn rõ ràng đã được khắc họa trước mắt các tướng lĩnh Đức, sự "mơ mộng" của Adolf Hitler cũng chính là một nguyên nhân then chốt khiến quân Đức không thể tiến lên với khí thế hùng hổ như hồi mùa hè.

Theo tiết lộ của Halder sau chiến tranh: "Bộ Tư lệnh Lục quân đặt mục tiêu là bẻ gãy sức mạnh quân sự của địch. Bởi vậy, công tác kế tiếp phải là đánh bại các lực lượng của Nguyên soái Timoshenko, bằng cách tập trung mọi lực lượng cho Tập đoàn quân trung tâm, thẳng tiến đến Moskva, chiếm lấy đầu não chỉ huy của địch, tiếp tục tiêu diệt các đội hình địch".

Nếu quân đội Đức Quốc xã hành tiến theo hướng tư duy này, Hồng quân có lẽ sẽ phải tốn nhiều xương máu gấp bội, mà có khi vẫn phải chấp nhận bỏ Moskva, thực thi chiến lược "vườn không nhà trống" từng giúp Nguyên soái Kutuzov đánh bại Napoleon Bonaparte.

Tuy vậy, Hồng quân không cần phải làm thế, vì Hitler chọn chỉ huy theo cách… ngược lại. Ông ta đòi hỏi Tập đoàn quân Trung tâm [mạnh nhất và thiện chiến nhất] phải… chia quân cho hai hướng tấn công còn lại.

Lý do là gì? Ở phía Bắc, Hitler muốn quân Đức có thể bắt tay với quân Phần Lan, và hơn thế, muốn chiếm lấy Leningrad, như chiếm một biểu tượng, trong khi khóa chặt các đại đoàn dưới quyền Nguyên soái Budiyoni. 

Còn ở phía Nam, tham vọng của Hitler nhiều gấp bội. Ông ta vừa thèm khát những khu công nghiệp nằm trên lãnh thổ Ukraina, vừa muốn "cài cắm" những tư tưởng bài Nga và thân Đức ở phần lãnh thổ Tây Ukraina vốn gần gũi với đế chế Phổ. Ông ta vừa muốn chiếm các mỏ dầu ở vùng Kavkaz, vừa muốn củng cố và bảo vệ các mỏ dầu ở Romania. Dù sao, điều này cũng tương đối dễ hiểu, bởi Đức Quốc xã luôn đói khát nhiên liệu.

Nhưng không chỉ vậy, ở phía Nam, Hitler còn muốn đến gần để chìa tay giúp đỡ người đồng minh Italy đang mắc kẹt trong các trận đánh tại Nam Âu. Nghĩa là, Hitler sẵn sàng chất thêm lên mình một gánh nặng. Kết quả: Tập đoàn quân Trung tâm buộc phải tách quân để chi viện cho hai hướng kia, còn kế hoạch đánh thẳng đến Moskva không thể không bị đình lại.

Và quãng trì hoãn ấy trở thành một sự đình trệ vô thời hạn. Vĩnh viễn, những đoàn xe tăng Đức Quốc xã không thể đến nổi những đường phố Moskva. Như Halder nhận xét: "Đó chính là sai lầm chiến lược tai hại nhất ở mặt trận phía Đông".

* Halder ghi trong nhật ký, ngày 11/8: "Càng ngày càng thấy rõ rằng ta đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Liên Xô, không chỉ về kinh tế, mà hơn cả là về quân sự. Khởi đầu, ta ước lượng địch có khoảng 200 sư đoàn. Bây giờ, đã xác định được khoảng 360. Khi hàng chục sư đoàn bị tiêu diệt, họ lập tức tung ra hàng chục sư đoàn khác. Trên mặt trận bao la này, phòng tuyến của ta là quá mỏng, quá thiếu chiều sâu. Vì thế, các cuộc phản kích liên tục của địch thường đạt được thành công nhất định".

* Hitler chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Lục quân Đức, ngày 21/8: "Mục tiêu quan trọng nhất phải đạt được trước mùa đông không phải là chiếm Moskva, mà phải chiếm Crimea, vùng công nghiệp và các mỏ than ở Donetsk, cắt đứt nguồn cung xăng dầu của Liên Xô khỏi Kavkaz".

Thiên Phong

Video liên quan

Chủ Đề