Tế bào biểu mô vảy không điển hình là gì năm 2024

Xét nghiệm HPV rủi ro cao được thực hiện cho Tế Bào Vảy Không Điển Hình Có Ý Nghĩa Chưa Xác Định [ASCUS] [dành cho phụ nữ < 30 tuổi]

[Nội dung được sửa đổi vào tháng 04/2023]

Khi xét nghiệm tầm soát cổ tử cung cho thấy sự hiện diện của Tế Bào Vảy Không Điển Hình Có Ý Nghĩa Chưa Xác Định [Atypical Squamous Cells of Undetermined Significance, ASCUS], điều đó có nghĩa là những tế bào này hơi khác so với các tế bào bình thường khi soi dưới kính hiển vi nhưng mức độ thoái hóa của những tế bào này chưa đủ nghiêm trọng để được gọi là tế bào tiền ung thư. ASCUS là phát hiện bất thường phổ biến nhất trong các xét nghiệm tầm soát cổ tử cung: Cứ 100 phụ nữ tham gia xét nghiệm tầm soát thì có khoảng 3 đến 5 người có biểu hiện trên và 50% trong số họ sẽ có tế bào hồi phục trở lại bình thường sau 4 đến 6 tháng. Phân loại HPV là xét nghiệm bổ sung được thực hiện để đánh giá xem các tế bào cổ tử cung có bị nhiễm Vi-rút Gây U Nhú ở Người [Human Papillomavirus, HPV] tiềm ẩn rủi ro cao hay không. Xét nghiệm này cũng đánh giá nguy cơ tế bào biến đổi thành tế bào tiền ung thư hoặc tế bào ung thư theo thời gian vì gần như tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung đều do tình trạng lây nhiễm dai dẳng với HPV tiềm ẩn rủi ro cao gây ra.

Nếu các tế bào cổ tử cung không bị nhiễm HPV tiềm ẩn rủi ro cao thì khả năng tế bào bị thoái hóa nghiêm trọng là rất thấp. Do đó, phụ nữ sẽ chỉ phải làm lại xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung sau 3 năm. Nếu xét nghiệm phết tế bào lặp lại cho kết quả bình thường, thì phụ nữ có thể tiếp tục làm tầm soát định kỳ như những người khác. Nếu kết quả xét nghiệm lặp lại cho thấy các tế bào bất thường dai dẳng hoặc các tế bào bị thoái hóa thêm, thì người phụ nữ sẽ được giới thiệu đến phòng khám chuyên khoa để thực hiện nội soi cổ tử cung.

Chúng tôi hiểu rằng quý vị có thể sẽ muốn lặp lại xét nghiệm trong thời gian sớm nhất có thể. Do lớp bên ngoài của tế bào cổ tử cung đã bị nạo đi trong lần xét nghiệm phết tế bào trước đó và các tế bào cần thời gian để phát triển trở lại [ít nhất 4 đến 6 tuần], nên việc tái khám sớm không thể phản ánh chính xác tình trạng của tế bào cổ tử cung và các tế bào sẽ không có đủ thời gian để hồi phục trở lại bình thường. Hơn nữa, việc xét nghiệm quá thường xuyên có thể phát hiện những biến đổi có khả năng sẽ không bao giờ gây ung thư, nhưng sẽ dẫn đến việc lo lắng, kiểm tra và điều trị không cần thiết. Do đó, quý vị nên lặp lại xét nghiệm vào thời gian đã hẹn.

Nếu các tế bào cổ tử cung bất thường bị nhiễm HPV tiềm ẩn rủi ro cao, các tế bào này có khả năng bị thoái hóa nghiêm trọng hoặc tiến triển thành ung thư. Do đó, người phụ nữ sẽ được giới thiệu đến phòng khám chuyên khoa để thực hiện nội soi cổ tử cung. Do quá trình tiến triển từ các tế bào cổ tử cung bị thoái hóa nghiêm trọng thành ung thư thường mất từ 5 đến 10 năm nên tình trạng này hiếm khi gây ra bất kỳ mối đe dọa tức thời nào, vì vậy xin đừng quá lo lắng.

Nội soi cổ tử cung là gì?

Nội soi cổ tử cung là thủ thuật kiểm tra âm đạo và cổ tử cung bằng kính phóng đại. Thủ thuật kiểm tra có thể được thực hiện tại các phòng khám mà không cần gây mê và sẽ mất khoảng 10 phút.

Quy trình

Bác sĩ sẽ đưa ống nội soi cổ tử cung vào, nhuộm âm đạo và cổ tử cung bằng dung dịch thuốc chuyên dụng rồi dùng kính phóng đại để xác định tổn thương bất thường. Nếu phát hiện tổn thương bất thường, bác sĩ sẽ sử dụng thiết bị để lấy một mẫu mô nhỏ và gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích thêm.

- Tầm soát ung thư cổ tử cung được dùng để phát hiện những thay đổi bất thường trong tế bào cổ tử cung có thể dẫn tới ung thư. Việc tầm soát ung thư cổ tử cung bao gồm xét nghiệm Pap và, đối với một số phụ nữ, xét nghiệm virus HPV [Virus gây u nhú ở người].

Xét nghiệm Pap là gì?

- Đây là một xét nghiệm trong đó tế bào được lấy từ cổ tử cung và âm đạo sau đó được nhuộm và quan sát dưới kính hiển vi.

Nguyên nhân gây ra những kết quả xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung bất thường?

- Nguyên nhân chủ yếu gây ra ung thư cổ tử cung là do nhiễm virus HPV. Có nhiều típ HPV. Một số típ có liên quan đến ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, hậu môn và dương vật. Một số khác có thể gây ra ung thư ở vùng đầu, cổ. Những típ virus HPV này được gọi là “típ nguy cơ cao”. Hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung được gây ra bởi 2 típ virus HPV nguy cơ cao là típ 16 và típ 18. Tế bào nhiễm virus HPV sẽ có đặc điểm khác với những tế bào bình thường khi soi dưới kính hiển vi.Những thay đổi bất thường có thể nhẹ hoặc nặng. Sự thay đổi càng nặng thì khả năng dẫn tới ung thư càng cao nếu không được chữa trị.

Sự khác biệt giữa thuật ngữ tổn thương nội biểu mô cổ tử cung và tổn thương nội biểu mô vảy?

- Những thuật ngữ này được dùng để mô tả sự thay đổi ở cổ tử cung nhưng chúng được dùng ở những tình huống khác nhau.

- Tổn thương nội biểu mô vảy [SIL] dùng để mô tả kết quả xét nghiệm Pap. Biểu mô vảy là những tế bào phủ ở phía ngoài cổ tử cung. Tổn thương nội biểu mô vảy [SIL] không phải là một chẩn đoán tiền ung thư hay ung thư. Xét nghiệm Pap có ý nghĩa là một phương pháp tầm soát, nó không thể nói lên chính xác mức độ nặng của những thay đổi ở tế bào cổ tử cung. Việc Sinh thiết Cổ tử cung là cần thiết để xác định thật sự có tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư.

- Tổn thương nội biểu mô cổ tử cung [CIN] được dùng để trả lời kết quả sinh thiết cổ tử cung. Tổn thương nội biểu mô cổ tử cung [CIN] mô tả chính xác sự thay đổi ở các tế bào cổ tử cung. CIN được chia thành 3 độ [1,2,3]. CIN 1 chỉ sự thay đổi tế bào ở mức độ nhẹ, thường tự lành mà không cần điều trị. CIN 2 chỉ sự thay đổi ở mức độ vừa. CIN 3 là những thay đổi ở mức độ nặng hơn. CIN 2 và CIN 3 có thể tiến triển tới ung thư vì vậy chúng được xếp vào nhóm tiền ung thư.

Có những dạng tổn thương bất thường nào trong kết quả xét nghiệm Pap?

  • Tế bào vảy không điển hình có ý nghĩa chưa xác định [ASC-US]: có nghĩa phát hiện được những thay đổi ở tế bào vảy. Những sự thay đổi hầu hết là dấu hiệu của tình trạng nhiểm HPV. ASC-US là bất thường phổ biến nhất trong kết quả xét nghiệm Pap.
  • Tổn thương nội biểu mô vảy độ thấp [LSIL]: có nghĩa là những tế bào vảy có sự thay đổi bất thường ở mức độ vừa. LSIL thường bị gây ra bởi tình trạng nhiễm HPV và thường có thể tự thuyên giảm.
  • Tổn thương nội biểu mô vảy độ cao [HSIL]: chỉ những sự thay đổi bất thường ở mức độ nặng hơn so với LSIL. Nó liên quan với tình trạng tiền ung thư và ung thư cao hơn LSIL.
  • Tế bào vảy không điển hình, chưa loại trừ HSIL [ASC-H]: có nghĩa phát hiện được những sự thay đổi ở tế bào cổ tử cung mà cần cân nhắc đến tình trạng HSIL
  • Tế bào tuyến không điển hình [AGC]: Những tế bào tuyến thuộc lớp biểu mô phủ ống trong của cổ tử cung và còn xuất hiện ở nội mac tử cung. Chẩn đoán AGC có nghĩa rằng cần cân nhắc sự thay đổi ở những tế bào tuyến này ở mức độ tổn thương tiền ung thư và ung thư.

Cần làm những xét nghiệm gì tiếp theo với một kết quả xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung bất thường?

Nếu bạn có một kết quả xét nghiệm Pap bất thường, bạn cần sự kiểm tra sâu hơn. Những xét nghiệm sau đó sẽ được tiến hành tùy theo độ tuổi và kết quả xét nghiệm Pap ban đầu của bạn. Khuyến cáo được thực hiện theo bảng sau:

Kết Quả

Tuổi 21-24

Tuổi 25-29

Từ 30 tuổi trở lên

Xét nghiệm HPV [-]

Xét nghiệm HPV [+]

Không bất thường

Làm lại XN Pap mỗi 3 năm

Làm lại XN Pap mỗi 3 năm

- Tốt hơn nên làm lại đồng thời 2 XN Pap và HPV mỗi 5 năm

- Có thể chấp nhận: chỉ làm XN Pap mỗi 3 năm

- Có thể chấp nhận: làm đồng thời XN Pap và XN HPV trong 12 tháng

- Chập nhận được: XN phân típ HPV

ASC-US

- Tốt nhât nên làm lại XN Pap trong 12 tháng

- Có thể chấp nhận: làm XN HPV đối chiếu [Reflex HPV test] trong 12 tháng

- Tốt hơn nên làm XN HPV đối chiếu

- Có thể chấp nhận: làm lại XN Pap trong 12 tháng

Làm lại 2 XN đồng thời Pap và HPV trong 3 năm

Soi cổ tử cung

LSIL

Làm lại XN Pap trong 12 tháng

Soi cổ tử cung

- Tốt hơn: làm lại XN Pap trong 12 tháng

- Có thể chấp nhận: Soi cổ tử cung

Soi cổ tử cung

ASC-H

Soi cổ tử cung

Soi cổ tử cung

Soi cổ tử cung

Soi cổ tử cung

HSIL

Soi cổ tử cung

Điều trị cắt cổ tử cung ngay hoặc soi cổ tử cung

Điều trị cắt cổ tử cung ngay hoặc soi cổ tử cung

Điều trị cắt cổ tử cung ngay hoặc soi cổ tử cung

AGC

AGC có một vài phân nhóm.Hướng xử trí theo dõi tùy thuộc từng phân nhóm AGC. Những xét nghiệm để theo dõi AGC bao gồm: soi cổ tử cunng, lấy mẫu cổ trong Cổ tử cung, lấy mẫu nội mạc tử cung.

Ghi chú: - Xét nghiệm phân típ HPV: là xét nghiệm xác định virus HPV típ 16 và típ 18

- Xét nghiệm HPV đối chiếu [Reflex HPV test]: là xét nghiệm xác định các típ virus HPV nguy cơ cao trên cùng mẫu bệnh phẩm làm xét nghiệm Pap.

  • Soi cổ tử cung: là một thủ thuật để thăm khám cổ tử cung với một thiết bị phóng đại hình ảnh. Nếu vùng tế bào tổn thương được nhìn thấy, Bác sĩ sẽ quyết đinh sinh thiết cổ tử cung hay không.
  • Sinh thiết cổ tử cung: Bác sĩ sẽ bấm một mẩu mô nhỏ ở vùng cổ tử cung bị tổn thương và gửi đến khoa Giải Phẫu Bệnh để làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định chính xác tổn thương.
  • Lấy mẫu cổ trong cổ tử cung: một dụng cụ chuyên dụng sẽ được dùng để lấy mẫu từ ống cổ tử cung.
  • Lẫy mẫu nội mạc tử cung: Một mẫu nhỏ của nội mạc tử cung [phủ ở lòng tử cung] được lấy để xét nghiệm. Những phụ nữ được chẩn đoán AGC cần được làm xét nghiệm này tiếp theo.

Những tổn thương bất thường của tế bào cổ tử cung được điều trị như thế nào?

Nói chung, có hai cách để điều trị những tổn thương bất thường này:

1]: Điều trị cắt bỏ: mô tổn thương được cắt bỏ khỏi cổ tử cung và được gửi đến khoa Giải Phẫu Bệnh để xét nghiệm chính xác tổn thương và mức độ nặng của tổn thương.

2]. Điều trị bằng công cụ: mô tổn thương ở cổ tử cung bị phá hủy và không có mẫu bệnh phẩm gửi đến khoa Giải Phẫu Bệnh

Có những kỹ thuật điều trị cắt bỏ nào?

  • Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện [LEEP]: một vòng nhỏ bằng kim loại gắn với dòng điện được dùng để cắt bỏ vùng tổn thương bất thường của cổ tử cung.
  • Sinh thiết chóp cổ tử cung: một mẫu mô cổ tử cung hình nón có chứa các tế bào bất thường được cắt bỏ.

Có những kỹ thuật điều trị bằng công cụ nào?

  • Kỹ thuật làm lạnh: một thiết bị được dùng để làm đông lạnh mô cổ tử cung bị tổn thương, sau đó được làm bong ra khỏi cổ tử cung.
  • Liệu pháp lazer: một chùm tia lazer hội tụ được dùng để phá hủy phần mô cổ tử cung bị tổn thương.

Tài liệu tham khảo:

//www.acog.org/-/media/For-Patients /faq187.pdf?dmc=1&ts=20170918T1456226635

Chủ Đề