Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

  • Pit-tông có nhiệm vụ cùng với xilanh, nắp máy tạo thành không gian làm việc, nhận lực đẩy của khí cháy rồi truyền lực cho thục khuỷu để sinh công và nhận lực từ trục khuỷu để thực hiện các quá trình nạp, nén, cháy–dãn nở và thải khí.

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

a, Đỉnh pit-tông: có 3 dạng: đỉnh lồi, đỉnh bằng, đỉnh lõm.

  • Đỉnh bằng:

    • Kết cấu đơn giản

    • Diện tích chịu nhiệt nhỏ

    • Thường dùng trong động cơ Điezen buồng cháy xoáy lốc

  • Đỉnh lồi

    • Mỏng, nhẹ, sức bền lớn.

    • Diện tích chịu nhiệt lớn.

    • Động cơ xăng 4 kỳ và 2 kỳ xupap treo.

  • Đỉnh lõm

    • Tạo xoáy lốc nhẹ.

    • Sức bền kém, diện tích chịu nhiệt > đỉnh bằng.

    • Động cơ xăng và Điezen.

b, Đầu pit-tông:

  • Có nhiệm vụ bao kín buồng cháy.

  • Đầu pit-tông có các rãnh để lắp xecmăng khí và xecmăng dầu, xecmăng dầu được lắp ở phía dưới.

    • Xec-măng khí ngăn không cho khí trên buồng cháy lọt xuống cate.

    • Xec-măng dầu ngăn không cho dầu bôi trơn từ cate lọt vào buồng cháy.

c, Thân pit-tông:

  • Thân pit-tông có nhiệm vụ dẫn hướng cho pit-tông chuyển động trong xilanh.

  • Trên thân pit-tông có khoan lỗ để lắp chốt pit-tông liên kết với thanh truyền

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

III, Thanh truyền

1, Nhiệm vụ

  • Thanh truyền là chi tiết truyền lực giữa pit-tông và trục khuỷu.

2, Cấu tạo

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

  • Thanh truyền được chia làm 3 phần: đầu nhỏ, thân và đầu to.

    • Đầu nhỏ thanh truyền để lắp vơi chốt pit-tông, có dạng hình trụ.

    • Đầu to thanh truyền để lắp với chốt khuỷu, có thể làm liền khối hoặc làm 2 nửa và dùng bu lông ghép lại với nhau.

    • Bên trong đầu to và đầu nhỏ có lắp bạc lót để dảm ma sát và chống mài mòn.

IV, Trục khuỷu

1, Nhiệm vụ

  • Trục khuỷu có nhiệm vụ nhận lực từ thanh truyền tạo ra mô men quay để kéo máy công tác, ngoài ra trục khuỷu còn dẫn động cho tất cả các cơ cấu hệ thống để động cơ hoạt động.

2, Cấu tạo

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

  • Cấu tạo trục khuỷu gồm :

    • Cổ khuỷu lắp trên ổ đỡ trên thân máy và là trục quay của trục khuỷu.

    • Chốt khuỷu lắp đầu to thanh truyền. Cổ khuỷu, chốt khuỷu có dạng hình trụ.

    • Má khuỷu nối chốt khuỷu và cổ khuỷu, trên má khuỷu còn có đối trọng.

    • Đuôi trục khuỷu lắp vớ bánh đà

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

Trục khuỷu động cơ bốn xi lanh 

1. Đầu trục khuỷu       

2. Chốt khuỷu  

3. Cổ khuỷu

4. Má khuỷu  

5. Đối trọng  

6. Đuôi trục khuỷu

Bài tập minh họa

Piston có cấu tạo như một máy nén khí hoặc xi lanh hơi nằm bên trong động cơ xe. Bộ phận này có dạng hình trụ gồm đỉnh, đầu và thân liền cùng một khối.

  • Phần đỉnh có 3 dạng là đỉnh bằng, đỉnh lồi và đỉnh lõm. Nhiệm vụ của đỉnh piston là nhận áp suất khí đốt nên có tính chịu nhiệt cao. 
  • Phần đầu có các rãnh để lắp xéc măng khí và xéc măng dầu. Ở đáy rãnh xéc măng có các lỗ nhỏ sâu vào bên trong làm nhiệm vụ thoát hoặc cấp dầu cho động cơ.
  • Phần thân nối liền với thanh truyền để tạo lực quay trục khuỷu. Ngoài ra, còn có một chốt nối giữa piston và thanh truyền. Nhiệm vụ chính của phần thân piston là điều hướng chuyển động trong xi lanh. 

Nhiệm vụ của piston cùng với xi lanh và nắp máy là tạo thành buồng đốt, nhận lực sinh ra từ khí cháy để truyền lực cho trục khuỷu. Trục khuỷu sinh công để thực hiện các quá trình nạp, nén, cháy, dãn nở và thải khí.

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào
Cấu tạo của piston gồm 3 phần: phần đỉnh, phần đầu và phần thân (Nguồn: Sưu tầm)

2. Thanh truyền

Thanh truyền có nhiệm vụ dẫn truyền lực từ piston qua trục khuỷu. Cấu tạo của thanh truyền gồm 3 phần:

  • Đầu nhỏ là khối trụ tròn để lắp với piston qua một thanh chốt. Tại vị trí tiếp xúc giữa 2 bộ phận piston và thanh truyền sẽ được phủ một lớp bạc mỏng nhằm hạn chế tối đa sự ma sát giúp nâng cao tuổi thọ của 2 bộ phận.
  • Đầu to nằm ở phía đối diện đầu nhỏ, là phần nối liền trục khuỷu thanh truyền. Bộ phận này được chế tạo với độ chính xác cao, đảm bảo quá trình hoạt động giữa các bu lông không bị lỏng.
  • Phần thân có nhiệm vụ gắn kết đầu to và đầu nhỏ của thanh truyền.
Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào
Thanh truyền là bộ phận kết nối piston và trục khuỷu (Nguồn: Sưu tầm)

3. Trục khuỷu

Trục khuỷu liên kết chặt chẽ với piston thông qua thanh truyền dẫn động, tạo lực quán tính làm cho trục xoay đều. Vì thế, trục khuỷu được thiết kế đặc biệt để chịu lực uốn, xoắn và mài mòn ở các cổ trục. Cấu tạo chính của trục khuỷu bao gồm 6 phần:

  • Đầu trục khuỷu.
  • Chốt khuỷu nối liền với thanh truyền để nhận lực.
  • Cổ khuỷu có dạng hình trụ và là trục quay chính.
  • Má khuỷu làm phần liên kết giữa cổ và chốt khuỷu để truyền lực giữa 2 bộ phận.
  • Đối trọng.
  • Đuôi trục khuỷu là phần cuối gắn liền với bánh đà bên trong động cơ xe.

Hiện nay trên thị trường có 2 loại trục khuỷu phổ biến như sau:

  • Trục khuỷu liền gồm các bộ phận: cổ trục, cổ biên, má khuỷu liên kết thành một khối thống nhất không thể tháo rời.
  • Trục khuỷu ghép gồm các bộ phận: cổ biên, cổ trục và má khuỷu riêng biệt được nối lại với nhau bằng thanh trục khuỷu. Trục khuỷu ghép được dùng nhiều trong động cơ cỡ lớn hoặc động cơ có công suất nhỏ nhưng ít xi lanh và đầu to thanh truyền không bị cắt đôi.

Nhiệm vụ chính của trục khuỷu là nhận lực của piston thông qua thanh truyền dẫn động, biến lực di chuyển tịnh tiến thành lực quay, sau đó nối với các hệ thống khác tạo thành một động cơ hoàn chỉnh.

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào
Trục khuỷu biến lực tịnh tiến của piston thành lực quay và nối với bánh đà tạo thành động cơ xe hoàn chỉnh (Nguồn: Sưu tầm)

Cơ cấu trục khuỷu thanh truyền là thành phần chính cấu tạo nên động cơ. Nhờ có bộ phận này động cơ mới có thể hoạt động ổn định. 

Hiện nay, bộ đôi VinFast Lux A2.0 và VinFast Lux SA2.0 được trang bị động cơ xăng 2.0L 4 xi lanh có công suất lên đến 228 mã lực. Đặc biệt, mẫu xe VinFast President với động cơ V8 6.2L 8 xi lanh có công suất tối đa lên đến 420 mã lực kèm hệ thống hợp số tự động ZF 8 cấp giúp xe vận hành êm ái trên mọi cung đường. 

Quý khách hàng quan tâm các dòng xe ô tô VinFast cần có thêm thông tin về sản phẩm vui lòng liên hệ với chúng tôi qua tổng đài tư vấn 1900 23 23 89 để được tư vấn. 

*Thông tin trong bài viết mang tính chất tham khảo.

 >> Xem thêm: Tìm hiểu chi tiết về cảm biến trục khuỷu

Thanh truyền (tiếng Anh: connecting rod), hay còn gọi là biên, tay biên, tay dên (từ tiếng Pháp: bielle), là một bộ phận của động cơ piston, có nhiệm vụ kết nối piston với trục khuỷu. Thanh truyền kết hợp cùng với tay quay (khuỷu) biến đổi chuyển động tịnh tiến của piston thành chuyển động quay của trục khuỷu. Thanh truyền chịu lực nén và lực kéo từ piston và quay ở hai đầu.

Thân thanh truyền có hình dạng như thế nào

Thanh truyền và piston

Tiền thân của thanh truyền là cơ cấu liên hợp cơ học dùng trong các cối xay nước. Cơ cấu liên hợp này biến đổi chuyển động quay của bánh xe nước thành chuyển động tịnh tiến.[1] Thanh truyền được dùng chủ yếu trong các động cơ đốt trong hoặc động cơ hơi nước.

 

Mô hình cưa xẻ đá Hierapolis vào thời La Mã Cổ Đại. Đây là loại máy móc sử dụng hệ cơ học thanh truyền – tay quay cổ xưa nhất.[2]

Thanh truyền xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên khi được sử dụng trong máy cưa xẻ đá Hierapolis. Thanh truyền cũng được sử dụng trong những xưởng cưa cổ ở vùng Ephesus và Jerash thuộc Đế quốc Đông La Mã. Cơ cấu thanh truyền – tay quay biến chuyển động quay của bánh xe nước thành chuyển động tịnh tiến của lưỡi cưa.[2]

Ở nước Ý thời Phục hưng, bằng chứng sớm nhất về hệ thanh truyền – tay quay (dù thời đó, người ta hiểu sai về cơ cấu hoạt động này về mặt cơ học) được tìm thấy trong những bản phác hoạ của nhà khoa học Taccola.[3] Việc hiểu đúng chuyển động của thanh truyền được thể hiện bởi hoạ sĩ Pisanello qua mô tả một bơm piston chạy bằng bánh xe nước và hai bộ thanh truyền – tay quay đơn giản.[3]

Đến thế kỷ 16, những ghi chép và hình hoạ mô tả về hệ thanh truyền – tay quay trở nên vô cùng phổ biến ở Châu Âu thời Phục Hưng. Chỉ riêng tác phẩm “Những máy móc tạo tác kỳ lạ” (The Diverse and Artifactitious Machines) của kỹ sư người Ý, Agostino Ramelli, ra đời năm 1588 đã mô tả 18 ứng dụng của thanh truyền, sau đó đến tác phẩm của kỹ sư người Đức, Georg Andreas Böckler, "Giới thiệu những máy móc mới" (Theatrum Machinarum Novum) đã giới thiệu đến 45 loại máy móc khác nhau sử dụng thanh truyền.[4]

Thanh truyền còn xuất hiện trong những bản vẽ được tìm thấy ở Vương quốc Artuqids (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào giai đoạn 1174–1206 sau CN, khi nhà phát minh Al-Jazari mô tả một loại máy kết hợp thanh truyền và trục khuỷu vào hệ thống máy bơm nước.[5][6]

 

Động cơ xà cân bằng sử dụng hai thanh truyền (thẳng đứng) đặt giữa thanh xà nằm ngang và bánh đà

 

Thanh truyền sử dụng trong động cơ đầu máy hơi nước (đặt giữa piston và bánh sau, thanh trụ lớn nhất trong hình)

Động cơ áp suất khí quyển Newcomen, được xem là động cơ hơi nước đầu tiên, ra đời năm 1712 sử dụng cơ cấu dẫn động xích thay cho thanh truyền, do piston chi tao ra áp lực trong một chiều chuyển động.[7] Tuy nhiên, hầu hết những loại động cơi hơi nước ra đời sau đó đều là loại tác động kép, do vậy piston tạo ra áp lực trong cả hai chiều chuyển động, dẫn đến việc sử dụng thanh truyền. Thiết kế động cơ kiểu này bao gồm khối trượt lớn, gọi là thanh trượt dẫn hướng (crosshead) và khớp nối giữa piston và thanh truyền đặt bên ngoài xi lanh, cùng việc bịt kín xung quanh trục piston (hay còn gọi là cần piston).[8]

Trong động cơ đầu máy hơi nước, tay quay được gắn trực tiếp trên bánh xe lửa. Thanh truyền có vai trò kết nối giữa chốt khuỷu trên bánh xe và thanh trượt dẫn hướng (nối với trục piston).[9] Thanh truyền sử dụng trong động cơ đầu máy chạy bằng diesel được gọi là cần nối (side rod or coupling rod). Trong những động cơ hơi nước loại nhỏ, thanh truyền thường có tiết diện cắt hình chữ nhật,[10] tuy nhiên, vẫn có loại sử dụng thanh truyền tiết diện tròn thường dùng trong động cơ tàu biển. Đối với loại tàu hơi nước bánh guồng, thanh truyền được gọi là thanh truyền pitman (tránh lầm lẫn với thanh đòn dẫn hướng – Pitman arm).

 

Thanh truyền (màu đậm) sử dụng trong động cơ đốt trong. Đầu nhỏ thanh truyền (trên) nối với chốt piston; đầu to thanh truyền (dưới) được gắn với bạc lót cổ trục khuỷu.

Thanh truyền dùng trong những động cơ đốt trong, được chia thành ba phần chính: đầu to thanh truyền (hay "đầu biên lớn"), thân thanh truyền, và đầu nhỏ thanh truyền (hay "đầu biên nhỏ").[11] để giảm ma sát; tuy nhiên, ở một số động cơ nhỏ hơn, ổ trượt sẽ được thay bằng vòng bi (bạc đạn) để không cần sử dụng đến hệ thống bơm dầu bôi trơn.

Thông thường, trên thân ổ trượt ở đầu to thanh truyền có khoan lỗ để bơm dầu nhờn giúp bôi trơn hành trình di chuyển của piston và vòng găng.

Thanh truyền có thể xoay ở hai đầu, nhờ vậy, góc nghiêng giữa thanh truyền và piston có thể thay đổi dễ dàng khi thanh piston di chuyển lên xuống và quay quanh trục khuỷu.

Vật liệu

 

Thanh truyền bằng nhôm có đầu tách rời và bạc lót cổ trục (trái). Thanh truyền nhôm có lỗ châm dầu bôi trơn (giữa). Thanh truyền bằng thép (phải).

Trong những động cơ xe hơi, thanh truyền thường làm bằng thép. Những loại động cơ hiệu năng cao sử dụng thanh truyền nguyên khối đặc vốn được gia công từ nguyên phôi kim loại thay vì đúc hoặc rèn khuôn.

Những loại vật liệu khác dùng chế tạo thanh truyền là hợp kim nhôm T6-2024 hoặc T651-7075, có ưu điểm nhẹ và dễ hấp thụ lực tác động, tuy nhiên lại không bền. Titan cũng được dùng nhờ tính chất nhẹ nhưng lại đắt tiền hơn. Thanh truyền làm bằng gang cũng được sử dụng trong những động cơ giá rẻ và yêu cầu về hiệu năng thấp như xe gắn máy.

Những vấn đề khi sử dụng

 

Thanh truyền (màu đỏ) bị gãy

 

Thanh truyền này ban đầu bị gãy mỏi, sau đó tiếp tục bị phá hủy do tác động lực của trục khuỷu

Trong mỗi vòng quay của trục khuỷu, thanh truyền sẽ chịu loại áp lực lớn và liên tục lặp lại: lực trượt gây ra do góc tạo bởi piston và chốt khuỷu, lực nén của piston khi di chuyển hướng xuống, và lực kéo khi piston di chuyển hướng lên.[12] Tổng lực tác động bằng bình phương giá trị vận tốc động cơ (RPM).

Khi thanh truyền bị gãy, thanh truyền sẽ đâm vào thành cácte và gây hư hỏng động cơ đến mức không thể sửa được.[13] Những nguyên nhân thường gặp của hiện tượng gãy thanh truyền là do sự kéo đứt khi tốc độ vòng tua động cơ quáy cao, hoặc do lực tác động khi piston đập vào xupap (gây ra do cơ cấu chấp hành xupap bị hỏng), hoặc do vòng bạc bị hỏng (do vấn đề bôi trơn hoặc cách lắp đặt thanh truyền không đúng).[14][15][16][17]

Hiện tượng mòn xi lanh

Lực phương ngang từ trục khuỷu truyền qua thanh truyền đến piston sẽ có thể khiến xi lanh bị mòn thành hình ovan. Hiện tượng này làm giảm hiệu năng động cơ vì những vòng găng piston (có hình tròn) không thể bịt kín thành xi lanh bị lõm hình ovan.

Lực phương ngang tỉ lệ thuận với góc nghiêng của thanh truyền; do vậy, thanh truyền càng dài (góc nghiêng càng nhỏ) sẽ càng giảm lực phương ngang và từ đó giảm sự mòn động cơ. Tuy nhiên, chiều dài tối đa của thanh truyền bị giới hạn bởi kích thước thân máy; tổng giá trị chiều dài khoảng chạy piston cộng với chiều dài thanh truyền không được dài hơn chiều dài thân máy.

Thanh truyền chính–phụ

 

Nguyên lý hoạt động của động cơ piston hướng kính

 

Hệ thống thanh truyền chính–phụ được dùng trong động cơ máy bay V8 Renault 8G sản xuất năm 1916-1918

Động cơ piston hướng kính thường sử dụng hệ thống thanh truyền chính–phụ (master-and-slave rod), hay còn gọi là thanh truyền hình sao (articulated connecting rod),[18] trong đó một piston (piston vị trí trên cùng trong hình minh họa) nối với thanh truyền chính và trục khuỷu. Những piston còn lại có thanh truyền phụ nối với thanh truyền chính trong một bộ khớp nối ở giữa.

Những động cơ nhiều xi lanh, như động cơ V12, không có đủ không gian chứa ổ trục cho nhiều thanh truyền do bị giới hạn về chiều dài trục khuỷu. Giải pháp cho vấn đề này là việc thiết kế mỗi cặp xi lanh sẽ dùng chung một cổ khuỷu; tuy nhiên, điều này làm giảm kích thước của ổ trục thanh truyền và những xi lanh đối đỉnh ở các dãy xi lanh khác nhau sẽ hơi lệch nhau dọc theo trục khuỷu (điều này cũng đồng thời gây ra hiện tượng khớp nối rung lắc). Một phương pháp khác là dùng hệ hệ thống thanh truyền chính–phụ, trong đó thanh truyền chính sử dụng nhiều chốt nối tròn. Những chốt nối tròn này sẽ nối với đầu lớn của những thanh truyền phụ trên các xi lanh khác. Nhược điểm của phương pháp này là hành trình di chuyển của thanh truyền phụ sẽ ngắn hơn một chút so với thanh truyền chính, dẫn đến hiện tượng tung ở động cơ chữ V.

 

Động cơ Junkers Jumo 222 có cấu tạo gồm 24 xi lanh

Một trong những động cơ sử dụng kết cấu thanh truyền chính–phụ phức tạp nhất là động cơ máy bay thử nghiệm Junkers Jumo 222 có 24 xi lanh dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Động cơ này có 6 dãy xi lanh, mỗi dãy có 4 xi lanh đơn. Mỗi cụm sáu xi lanh sử dụng một thanh truyền chính cho một xi lanh, có vai trò điều khiển năm xi lanh còn lại thông qua thanh truyền phụ. Khoảng 300 động cơ thử nghiệm được chế tạo thời điểm đó, nhưng sau đó kiểu thiết kế động cơ này không đi vào sản xuất đại trà.

Thanh truyền hình nạng

 

Hệ thống thanh truyền hình nạng

Hệ thống thanh truyền hình nạng[19] (tiếng Anh: Fork-and-blade rod, split big-end rods) được sử dụng trong động cơ xe máy chữ V 2 xi lanh (V-twin) và động cơ máy bay V12.[20] Ở mỗi cặp xi lanh, đầu to của một thanh truyền có rãnh để đầu thanh truyền phụ được lắp vào. Kiểu thiết kế hệ thống thanh truyền này loại bỏ hiện tượng rung lắc khớp nối do những cặp xi lanh bị lệch dọc trọc khuỷu.

Một kiểu thiết kế phổ biến cho loại thanh truyền hình nạng là đầu to của thanh truyền chính sử dụng ổ trượt đơn kéo dài dọc suốt bề dày của thanh truyền chính, kể cả vùng rãnh hở ở giữa. Thanh trượt phụ sẽ không xoay trực tiếp trên chốt khuỷu mà xoay bên ngoài ổ trượt. Điều này giúp hai thanh truyền có thể dao động tới lui, thay vì phải xoay cùng nhau, nhờ đó giảm lực đè lên ổ trượt và ảnh hưởng tốc độ bề mặt. Tuy nhiên, chuyển động của ổ trượt sẽ trở thành tịnh tiến thay vì chuyển động quay đều, dẫn đến khó bôi trơn ổ trượt hơn.

Động cơ tiêu biểu sử dụng hệ thống thanh truyền hình nạng là động cơ máy bay Rolls-Royce Merlin V12 và động cơ xe máy chữ V 2 xi lanh của hãng Harley-Davidson.

  1. ^ Lyon, Robert L.; Editor. Steam Automobile Vol. 13, No. 3 (bằng tiếng Anh). SACA.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ a b Ritti, Grewe & Kessener 2007, tr. 161Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFRittiGreweKessener2007 (trợ giúp). Trích: Because of the findings at Ephesus and Gerasa the invention of the crank and connecting rod system has had to be redated from the 13th to the 6th c; now the Hierapolis relief takes it back another three centuries, which confirms that water-powered stone saw mills were indeed in use when Ausonius wrote his Mosella.
  3. ^ a b White, Jr. 1962, tr. 113Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFWhite,_Jr.1962 (trợ giúp)
  4. ^ White, Jr. 1962, tr. 172Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFWhite,_Jr.1962 (trợ giúp)
  5. ^ Ahmad Y Hassan. “The Crank-Connecting Rod System in a Continuously Rotating Machine”.
  6. ^ Sally Ganchy; Sarah Gancher (2009), Islam and Science, Medicine, and Technology, The Rosen Publishing Group, tr. 41, ISBN 978-1-4358-5066-8
  7. ^ “Steam Locomotive Glossary”. www.railway-technical.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016.
  8. ^ Dempsey, G.D.; Clark, D. Kinnear (2015). The Victorian Steam Locomotive: Its Design & Development 1804-1879. Barnsley, England: Pen & Sword Transport. tr. 27–28. ISBN 978-1-47382-323-5 – qua Google Books.
  9. ^ Ahrons, E.L. (1921). Neale, R.E. (biên tập). Steam Locomotive Construction and Maintenance. Pitman's Technical Primer Series. London: The Locomotive Publishing Co. Ltd. tr. 74–78 – qua Google Books.
  10. ^ White, John H., Jr. (1979). A History of the American Locomotive: Its Development, 1830-1880. New York: Dover Publications. tr. 185. ISBN 9780486238180.
  11. ^ Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (VSQI) (2016). Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8273-2:2016 (ISO 7967-2:2010) về Động cơ đốt trong kiểu pít tông – Thuật ngữ về các bộ phận và hệ thống – Phần 2: Cơ cấu truyền động chính. tr. 16.
  12. ^ “Causes of Failure With a Connecting Rod”. www.itstillruns.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  13. ^ “What does it mean to "throw a rod"?”. Car Talk. tháng 4 năm 1990. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ Policy, Privacy (ngày 15 tháng 3 năm 2017). “Preventing Connecting Rod Failures”. www.enginebuildermag.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  15. ^ “How to eliminate connecting rod failures”. www.hotrod.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  16. ^ “Probable Cause of Most Rod Failures”. www.arcracing.blogspot.com. ngày 1 tháng 6 năm 1999. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  17. ^ “Emerson Bearing Extreme Applications”. www.emersonbearing.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (VSQI) 2016, tr. 18
  19. ^ Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (VSQI) 2016, tr. 19
  20. ^ “Drysdale Godzilla V-Twin”. thekneeslider.com. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.

  • Trục khuỷu
  • Bánh đà

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thanh_truyền&oldid=67232341”