Thông tư hướng dẫn về thuế tài nguyên mới nhất

 ThS. Phạm Nữ Mai Anh, Khoa Thuế – Hải quan, Học viện Tài chính

 12.1. Nội dung cơ bản của Pháp luật thuế Tài nguyên

Tại Việt Nam vào ngày 30/03/1990 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh 34-LCT/HĐNN8 quy định về thuế Tài nguyên. Sau đó pháp lệnh này được sửa đổi bổ sung bởi Pháp lệnh 07/2008/PL-UBTVQH12 ngày 22/11/2008.

Ngày 25/11/2009, Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 được Quốc hội ban hành để thay thế cho các Pháp lệnh về thuế tài nguyên được quy định trước đó, có hiệu lực thi hành từ kỳ khai thuế tài nguyên tháng 7/2010. Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế tài nguyên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 105/2010/TT-BTC ngày 23/7/2010.

Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã ban hành Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, trong đó có một số sửa đổi, bổ sung về Thuế tài nguyên và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật số 71/2014/QH13. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn thi hành thuế tài nguyên thay thế thông tư số 105/2010/TT-BTC. Sau đó, Bộ Tài chính cũng đã ban hành thông tư số 12/2016/TT-BTC ngày 20/01/2016 sửa đổi, bổ sung khoản 1, điều 7 Thông tư số 152/2015/TT-BTC và thông tư số 174/2016/TT-BTC ngày 28/10/2016 sửa đổi, bổ sung điểm a, khoản 4, điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC.

Đối với lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, chính sách thuế tài nguyên còn được quy định bởi Luật Dầu khí và các luật sửa đổi, bổ sung Luật Dầu khí và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngày 26/02/2016, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 36/2016/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các tổ chức và cá nhân thực hiện tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí. Trong thông tư này có phần hướng dẫn về thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác dầu khí.

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật trên thì nội dung cơ bản của Pháp luật Thuế Tài nguyên bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

12.1.1. Người nộp thuế và Đối tượng chịu thuế

12.1.1.1. Người nộp thuế

 Người nộp thuế là tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên

12.1.1.2. Đối tượng chịu thuế

Đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, bao gồm:

– Khoáng sản kim loại.

– Khoáng sản không kim loại.

– Dầu thô theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật Dầu khí năm 1993.

– Khí thiên nhiên theo quy định tại khoản 3, điều 3 Luật Dầu khí năm 1993.

– Khí than theo quy định tại khoản 3, điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2008.

– Sản phẩm của rừng tự nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế trồng tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ.

– Hải sản tự nhiên, gồm động vật và thực vật biển.

– Nước thiên nhiên, bao gồm: Nước mặt và nước dưới đất; trừ nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước biển để làm mát máy.

Nước biển làm mát máy quy định tại khoản này phải đảm bảo các yêu cầu về môi trường, hiệu quả sử dụng nước tuần hoàn và điều kiện kinh tế kỹ thuật chuyên ngành được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.

– Yến sào thiên nhiên, trừ yến sào do tổ chức, cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác.

Yến sào do tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà để dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác phải đảm bảo theo quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

– Tài nguyên thiên nhiên khác do Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo Chính phủ để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

12.1.2. Căn cứ tính thuế và phương pháp xác định thuế tài nguyên

Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế tài nguyên, thuế suất thuế tài nguyên.

Phương pháp xác định thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ được quy định cụ thể như sau:

Thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ

=

Sản lượng tài nguyên tính thuế

x

Giá tính thuế đơn vị tài nguyên

x

Thuế suất thuế tài nguyên

Trường hợp được cơ quan nhà nước ấn định mức thuế tài nguyên phải nộp trên một đơn vị tài nguyên khai thác thì số thuế tài nguyên phải nộp được xác định như sau:

Thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ

=

Sản lượng tài nguyên tính thuế

x

Mức thuế tài nguyên ấn định trên một đơn vị tài nguyên khai thác

Việc ấn định thuế tài nguyên được thực hiện căn cứ vào cơ sở dữ liệu của cơ quan Thuế, phù hợp với các quy định về ấn định thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Trong đó:

12.1.2.1. Sản lượng tài nguyên tính thuế

– Đối với loại tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.

Trường hợp tài nguyên khai thác thu được sản phẩm tài nguyên có nhiều cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo sản lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có sản lượng bán ra lớn nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính thuế cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong kỳ.

– Đối với tài nguyên không xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế của tài nguyên khai thác do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau và được bán ra sau khi sàng tuyển, phân loại thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định như sau:

+ Đối với tài nguyên sau khi sàng tuyển, phân loại thu được từng chất riêng thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng loại tài nguyên hoặc từng chất có trong tài nguyên thu được sau khi sàng tuyển, phân loại .

Trường hợp đất, đá, phế thải, bã xít thu được qua sàng tuyển mà bán ra thì phải nộp thuế tài nguyên đối với lượng tài nguyên có trong phế thải, bã xít bán ra theo giá bán và thuế suất tương ứng của tài nguyên có trong phế thải, bã xít.

+ Đối với tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau [quặng đa kim] qua sàng, tuyển, phân loại mà không xác định được sản lượng từng chất có trong tài nguyên khai thác [quặng] thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định đối với từng chất căn cứ sản lượng tài nguyên thực tế khai thác [quặng] và tỷ lệ của từng chất có trong tài nguyên. Tỷ lệ từng chất có trong tài nguyên được xác định theo mẫu tài nguyên khai thác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm định và phê duyệt. Trường hợp, tỷ lệ của từng chất có trong tài nguyên khai thác thực tế khác với tỷ lệ từng chất có trong mẫu tài nguyên [quặng] thì sản lượng tính thuế được xác định căn cứ kết quả kiểm định về tỷ lệ từng chất có trong tài nguyên khai thác thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

– Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra [tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu] thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định như sau:

Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra [tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu] thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng tài nguyên khai thác được xác định bằng cách quy đổi từ sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ để bán ra theo định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm do NNT kê khai căn cứ dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tiêu chuẩn công nghệ thiết kế để sản xuất sản phẩm đang ứng dụng, trong đó:

+Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên thì căn cứ định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm tài nguyên sản xuất bán ra.

+Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp thì căn định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm công nghiệp sản xuất bán ra.

– Đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thuỷ điện thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng điện của cơ sở sản xuất điện bán cho bên mua điện theo hợp đồng mua bán điện hoặc sản lượng điện giao nhận trong trường hợp không có hợp đồng mua bán điện được xác định theo hệ thống đo đếm đạt tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam, có xác nhận của bên mua, bên bán hoặc bên giao, bên nhận.

– Đối với nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, nước thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định bằng mét khối [m3] hoặc lít [l] theo hệ thống đo đếm đạt tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam.

12.1.2.2. Giá tính thuế tài nguyên được quy định:

Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định; Trường hợp giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế tài nguyên theo giá do UBND cấp tỉnh quy định.

Trường hợp sản phẩm tài nguyên được vận chuyển đi tiêu thụ, trong đó chi phí vận chuyển, giá bán sản phẩm tài nguyên được ghi nhận riêng trên hóa đơn thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm tài nguyên không bao gồm chi phí vận chuyển.

– Đối với loại tài nguyên xác định được giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên

Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên có cùng phẩm cấp, chất lượng chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng và được áp dụng cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong tháng; Giá bán của một đơn vị tài nguyên được tính bằng tổng doanh thu [chưa có thuế GTGT] của loại tài nguyên bán ra chia cho tổng sản lượng tài nguyên tương ứng bán ra trong tháng.

– Đối với loại tài nguyên không xác định được giá bán đơn vị tài nguyên khai thác do có chứa nhiều chất khác nhau

Giá tính thuế là giá bán đơn vị tài nguyên của từng chất, được xác định căn cứ tổng doanh thu bán tài nguyên trong tháng [chưa có thuế GTGT] tính cho từng chất có trong tài nguyên khai thác theo tỷ lệ hàm lượng của từng chất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm phê duyệt và sản lượng tài nguyên bán ra ghi trên chứng từ bán hàng tương ứng với từng chất.

– Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra [bán trong nước hoặc xuất khẩu]

+ Trường hợp bán ra sản phẩm tài nguyên thì giá tính thuế là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên [trường hợp bán trong nước] tương ứng với sản lượng tài nguyên bán ra ghi trên chứng từ bán hàng hoặc trị giá hải quan của sản phẩm tài nguyên xuất khẩu [trường hợp xuất khẩu] không bao gồm thuế xuất khẩu tương ứng với sản lượng tài nguyên xuất khẩu ghi trên chứng từ xuất khẩu nhưng không thấp hơn giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định.

+ Trường hợp bán ra sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

12.1.2.3. Thuế suất thuế tài nguyên

Hiện nay thuế suất thuế tài nguyên làm căn cứ tính thuế tài nguyên đối với từng loại tài nguyên khai thác được quy định tại Biểu mức thuế suất thuế tài nguyên ban hành kèm theo Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các văn bản sửa đổi, bổ sung [nếu có].

12.1.3. Miễn, giảm thuế

Pháp luật thuế tài ngyên quy định chế độ miễn, giảm như sau:

– Người nộp thuế tài nguyên gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau.

– Miễn thuế đối với hải sản tự nhiên.

– Miễn thuế đối với cành, ngọn, củi, tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô do cá nhân được phép khai thác phục vụ sinh hoạt.

– Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện của hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất phục vụ sinh hoạt.

– Miễn thuế đối với nước thiên nhiên do hộ gia đình, cá nhân khai thác phục vụ sinh hoạt.

– Miễn thuế đối với đất khai thác và sử dụng tại chỗ trên diện tích đất được giao, được thuê; đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình an ninh, quân sự, đê điều.

– Trường hợp khác được miễn, giảm thuế do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

12.2. Thực trạng áp dụng thuế Tài nguyên thời gian qua

12.2.1. Kết quả đạt được

Tài nguyên khoáng sản là tài sản của quốc gia và thuộc loại không tái tạo được nên cần phải được khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả. Bằng việc sử dụng công cụ thuế, Nhà nước có thể định hướng và can thiệp vào việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả cho nền kinh tế đồng thời đóng góp một nguồn thu nhất định cho ngân sách nhà nước.

Kể từ khi Luật thuế tài nguyên được ban hành vào năm 2009 đã đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật về thuế tài nguyên với hệ thống pháp luật khác như: Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật phí, lệ phí…. tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý thu thuế Tài nguyên. Trong đó, đã bao quát được hầu hết các loại tài nguyên, khoáng sản thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên; Mọi tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên trên đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thuộc quyền tài phán của Việt Nam đều phải nộp thuế tài nguyên [trừ trường hợp được miễn thuế].

Công tác quản lý thu thuế Tài nguyên thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, nhất là thu từ dầu khí. Số thu về thuế tài nguyên chủ yếu từ dầu thô và khí thiên nhiên khai thác từ các hợp đồng dầu khí chiếm từ 82% đến 83% trên tổng số thu về thuế tài nguyên. Số thuế tài nguyên khai thác nội địa chiếm tỷ trọng khoảng 16- 17% tổng thu ngân sách nhà nước. Mặc dù tỷ trọng số thu thuế tài nguyên còn nhỏ so với tổng số thu thuế và phí nội địa, nhưng tỷ trọng có sự tăng dần qua các năm. Thuế tài nguyên là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách địa phương vì đây là khoản thu điều tiết 100% cho ngân sách địa phương [trừ dầu khí] theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước.

Với mức thuế suất thuế tài nguyên từ 3-35% tuỳ theo từng nhóm, loại tài nguyên, khoáng sản không những đã góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước và bình ổn thị trường, mà còn góp phần tăng cường quản lý tài nguyên; khuyến khích bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên.  

Luật thuế tài nguyên là một trong những công cụ quan trọng trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên. Quy định thuế tài nguyên [trừ dầu khí] để lại ngân sách địa phương 100%, cùng với việc giao cho UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quy định giá tính thuế đối với một số tài nguyên đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý địa phương tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế khai thác không phép, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường nơi khai thác.

Như vậy có thể thấy với việc ban hành Luật thuế tài nguyên đã tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ trong việc quản lý thu thuế tài nguyên, khuyến khích các địa phương tăng cường công tác quản lý thu thuế, đồng thời qua đó khuyến khích tăng cường bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó,Luật thuế tài nguyên còn tạo môi trường pháp lý bình đẳng giữa các thành phần doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển ngành khai thác và chế biến tài nguyên khoáng sản, qua đó tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động ở nhiều địa phương nơi có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản được thiên nhiên ban tặng.

12.2.2. Những hạn chế và tồn tại

Tuy số thu thuế tài nguyên có sự tăng dần qua các năm nhưng tỷ trọng số thu từ thuế tài nguyên trong tổng thu NSNN vẫn còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với lượng tài nguyên đã được khai thác phục vụ sản xuất, kinh doanh trong thời gian qua. Điều này thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 12.1. Số thu từ thuế tài nguyên giai đoạn 2001 – 2015

Chỉ tiêu

Bình quân giai đoạn 2001 – 2005

Bình quân giai đoạn 2006 – 2010

2011

2012

2013

2014

2015

Tổng số thu từ thuế tài nguyên, trừ dầu thô [Tỷ đồng]

854

2.317,2

6.905

7.377

8.090

10.792

11.129

Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên trong tổng thu NSNN [%]

0,53

0,55

0,95

0,99

1,02

1,38

1,22

Nguồn: Báo cáo rà soát, đánh giá Luật thuế Tài nguyên 2016 [4]

Qua bảng số liệu trên cho thấy, tỷ trọng số thu từ thuế tài nguyên [trừ dầu thô] những năm qua tuy có xu hướng tăng lên, song vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu NSNN [Xấp xỉ trên 1% tổng thu NSNN]. Như vậy nhìn một cách tổng thể, số thu từ thuế tài nguyên chưa thực sự tương xứng với lượng tài nguyên đã khai thác phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thời gian qua.

Tài nguyên khoáng sản là phần lớn là hữu hạn và không được tái tạo. Nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản nhìn có vẻ tương đối lớn nhưng trữ lượng có thể khai thác được thì rất hạn chế so với nhu cầu khoáng sản của nền kinh tế, đặc biệt với một nước đang phát triển như nước ta thì nhu cầu nguyên liệu khoáng sản lại ngày một tăng cao. Tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sử dụng ngày càng nhiều nhưng công tác quản lý nhà nước đối với các tài nguyên chưa được chặt chẽ dẫn đến vẫn còn tồn tại khá phổ biến hiện tượng khai thác khai thác một cách tràn lan, lãng phí dẫn đến gây thất thoát tài nguyên và ảnh hưởng đến số thu ngân sách nhà nước.

Sau gần 7 năm triển khai áp dụng thực hiện trong thực tiễn, Luật thuế Tài nguyên và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập nhất định, có thể được đề cập trên một số giác độ sau:

Thứ nhất: Về người nộp thuế

Quy định pháp luật hiện hành về người nộp thuế tài nguyên là chặt chẽ, rõ ràng và phù hợp thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi cụ thể như sau:

Điểm c Khoản 2 Điều 3 Luật Thuế tài nguyên quy định về một trong những trường hợp cụ thể về người nộp thuế như sau: “Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc kê khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế”. Rõ ràng với quy định như vậy thì nếu người mua gom tài nguyên không có cam kết giữa người bán tài nguyên nhỏ lẻ nộp thay thuế tài nguyên thì không phải kê khai nộp thuế dẫn đến dễ bị lợi dụng trốn thuế. Mặt khác, đối chiếu với những quy định của Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước và Luật Bảo vệ và phát triển rừng thì quy định như vậy là không phù hợp. Theo những văn bản này, các trường hợp khai thác khoáng sản, lâm sản và tài nguyên nước đều phải được cấp phép hoặc phải tuân thủ những quy định nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc thừa nhận người nộp thuế thay cho trường hợp khai thác nhỏ, lẻ có thể dẫn đến hiểu sai về đối tượng được phép khai thác khoáng sản, sản phẩm của rừng tự nhiên và nước thiên nhiên. Theo các luật có liên quan, trường hợp khai thác trái phép thì không thu thuế tài nguyên mà phải bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ và tính chất vi phạm.

Ngoài ra, Chính sách thuế chưa quy định rõ việc thu thuế tài nguyên đối với hộ gia đình, cá nhân khai thác tài nguyên, vật liệu xây dựng thông thường trên khuôn viên đất ở bán cho đơn vị kinh doanh vật liệu xây dựng, nên cần quy định rõ vào Luật

Thứ hai: Về đối tượng chịu thuế

Mặc dù đối tượng chịu thuế được quy định khá chi tiết và bao trùm khá nhiều loại tài nguyên thiên nhiên nhưng trên thực tế có một số loại tài nguyên có giá trị kinh tế cao như san hô đỏ, đá bazan dạng cột… lại chưa có quy định thu thuế tài nguyên, vô hình dung lại mở đường cho việc khai thác các tài nguyên này một cách dễ dàng, dễ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, đồng thời ảnh hưởng đến số thu ngân sách.

Thứ ba: Về sản lượng tính thuế

Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên quy định: “Đối với tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế”. Nhưng sản lượng thực tế khai thác do các doanh nghiệp kê khai, báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước mà thực tế hiện nay do thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp trong khi chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước nên một số doanh nghiệp được cấp phép khai thác loại khoáng sản quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như: Chì kẽm, Vàng, Đồng, Đá quý, đất hiếm có hệ số rủi ro rất cao trong việc kê khai đủ sản lượng khai thác để nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, do các mỏ được cấp đều năm ở vùng sâu, vùng xa, loại quặng này thường được vận chuyển lên biên giới để xuất khẩu theo đường tiểu ngạch. Điều này dẫn đến những rủi ro các nghĩa vụ đóng góp như cam kết ban đầu.

Mặt khác do thuế tài nguyên tính trên sản lượng thực tế khai thác do người khai thác khai báo cho nên chưa khuyến khích tận dụng hết tài nguyên trong khai thác chế biến. Nhiều doanh nghiệp khi khai thác đã bỏ tại nơi khai thác quá nhiều tài nguyên có giá trị thấp ví dụ như đá hoa trắng theo phản ánh của các doanh nghiệp khai thác thu hồi đạt dưới 10% trữ lượng khai thác đối với loại đá BLOK để xẻ tấm và tiêu thụ nguyên khối [đá hoa trắng BLOK xẻ tấm khi bán với già 35-40 triệu/m3, nếu bán nguyên khối cũng đạt gần 20 triệu /m3], doanh nghiệp chỉ cần tiêu thụ số sản phẩm này đã đem lại lợi nhuận tới 50% tổng doanh thu, số sản phẩm chất lượng thấp bỏ tại bãi không cần tận dụng vì không phải đóng thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường gây lãng phí rất lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Thứ tư: Về giá tính thuế

Trong quy định về giá tính thuế còn tồn tại một số vấn đề:

– Còn thiếu thống nhất trong quy định giữa Luật và Thông tư hướng dẫn thực hiện, gây khó khăn cho quá trình triển khai áp dụng trong thực tế. Cụ thể:

Khoản 1 Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC quy định “Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định; Trường hợp giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế tài nguyên theo giá do UBND cấp tỉnh quy định”. Quy định này có thể hiểu là: Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị tài nguyên chưa thuế giá trị gia tăng và trong mọi trường hợp không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

Trong khi đó, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên quy định như sau:

“1. Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Trường hợp tài nguyên chưa xác định được giá bán thì giá tính thuế tài nguyên được xác định theo một trong những căn cứ sau:

a] Giá bán thực tế trên thị trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên cùng loại nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh] quy định;

b] Trường hợp tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác định theo giá bán đơn vị của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định”.

Như vậy, theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên, chỉ trong trường hợp không xác định được giá bán thì giá tính thuế tài nguyên mới bị khống chế không thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định. Mặt khác, theo Khoản 5 Điều 4 Nghị định 50/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tài nguyên thì thẩm quyền hướng dẫn về giá tính thuế tài nguyên của Bộ Tài chính chỉ là giá tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng để sản xuất thủy điện, dầu thô, khí thiên nhiên, khí than và một số trường hợp cụ thể, không phải là tất cả các trường hợp về giá tính thuế tài nguyên.

Mặc dù, quy định về giá tính thuế tại Thông tư 152/2015/TT-BTC là chặt chẽ, góp phần ngăn ngừa hành vi gian lận về giá tính thuế tài nguyên, chống thất thu thuế tài nguyên, song rõ ràng, với những phân tích trên cho thấy, quy định về giá tính thuế tại Thông tư 152/2015/TT-BTC không thống nhất với Luật Thuế tài nguyên và Nghị định Nghị định 50/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tài nguyên. Điều này cho thấy, nếu thực hiện theo Luật thì tạo kẽ hở dẫn đến thất thu NSNN từ thuế tài nguyên. Nếu xác định giá tính thuế theo Thông tư thì chặt chẽ, hạn chế thất thu thuế tài nguyên nhưng không thống nhất với Luật.

– Giá tính thuế tài nguyên không khuyến khích sử dụng các tài nguyên có chất lượng thấp do chi phí chế biến, sàng tuyển cao và có trường hợp còn không được trừ chi phí khi tính thuế phải nộp. Cụ thể:

Nghị định số12/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2015 quy định

“Trường hợp tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra [tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu] thì giá tính thuế tài nguyên khai thác được xác định căn cứ vào trị giá hải quan của sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến xuất khẩu hoặc giá bán sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến trừ thuế xuất khẩu [nếu có] và các chi phí có liên quan từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu xuất khẩu hoặc từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu bán tại thị trường trong nước.

Căn cứ giá tính thuế tài nguyên đã xác định để áp dụng sản lượng tính thuế đối với đơn vị tài nguyên tương ứng. Giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó.”

Nhưng thông tư số 152 /2015/TT-BTC 02 tháng 10 năm 2015 lại hướng dẫn: “3. Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra [bán trong nước hoặc xuất khẩu]

b] Trường hợp bán ra sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

Chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp được trừ khi xác định giá tính thuế căn cứ công nghệ chế biến của doanh nghiệp theo Dự án đã được  phê duyệt nhưng không bao gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng”.

Như vậy đối với tài nguyên đã chế biến thành sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp. Quy định này rất hợp lý xét trên cả góc độ lý thuyết và thực tiễn. Tuy nhiên thực tế hiện nay thì đối với Quặng Apatit loại 3: Việc tuyển Quặng Apatit loại 3 thành quặng tuyển thương phẩm phải trải qua 4 công đoạn khác nhau từ đập thô đến nghiền rửa, tuyển nổi và cuối cùng là lắng lọc, tổng chi phí thuộc công nghệ tuyển chiếm trên 80% giá bán. Thống kê trung bình cứ 3 tấn quặng apatit loại 3 sau khi tuyển thì chỉ thu được 1 tấn quặng tuyển. Theo công ty Apatit Việt Nam thì quặng tuyển là sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến, giá tính thuế là giá bán nhưng không được trừ chi phí chế biến.

– Hàm lượng, chất lượng tài nguyên khai thác lên cùng tạp chất ở các địa bàn khác nhau là không đồng đều, nên khó khăn trong việc xác định khối lượng tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên và khó đảm bảo có giá tính thuế tài nguyên đối với một loại tài nguyên nhất định thống nhất trên toàn quốc.

– Theo Luật Thuế tài nguyên thì giá tính thuế là giá bán tài nguyên, không phân biệt nơi tiêu thụ; trường hợp trong kỳ khai thác tài nguyên không bán ra, mà đưa vào quy trình chế biến rồi mới bán, hoặc đưa vào sản xuất sản phẩm khác, thì tính thuế theo giá UBND cấp tỉnh quy định hoặc giá bán tài nguyên của tháng trước liền kề. Trong quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc về xác định giá tính thuế. Nếu tài nguyên tiêu thụ tại nơi khai thác thì giá tính thuế thấp hơn so với vận chuyển đi nơi khác để tiêu thụ hoặc qua chế biến rồi mới bán. Đối với tài nguyên xuất khẩu, theo quy định hiện hành [Bộ Công thương] không cho phép xuất khẩu tài nguyên thô, mà phải qua chế biến ở mức độ nhất định  mới được xuất khẩu. Trong khi, hiện nay chưa có quy định tiêu chí để phân biệt tài nguyên khai thác và tài nguyên đã qua chế biến [sản phẩm tài nguyên, chưa thành sản phẩm khác]. Cho nên tài nguyên đã qua quá trình chế biến có giá trị tăng thêm nhiều, khi xuất khẩu bán giá cao hơn và nộp thuế tài nguyên nhiều hơn [tính trên giá FOB] so với bán tài nguyên thô ở khâu khai thác. Dẫn đến một số doanh nghiệp khiếu nại là đánh thuế trùng lên cả phần giá trị gia tăng thêm. Do doanh thu này vừa chịu cả thuế GTGT, thuế xuất khẩu và các chi phí khác cấu thành trong giá tài nguyên đã qua chế biến. Không khuyến khích doanh nghiệp khai thác và chế biến sâu khoáng sản trước khi bán ra. Ngoài ra, thực tế còn phát sinh hiện tượng chuyển giá gây thất thu về giá tính thuế tài nguyên.

– Đối với nước thiên nhiên dùng sản xuất thuỷ điện, Luật quy định giá tính thuế là giá bán điện thương phẩm bình quân trên thị trường do nhà nước công bố. Tuy nhiên, trong cơ cấu giá bán điện bình quân trên thị trường không chỉ riêng giá bán thuỷ điện, mà bao gồm cả giá bán điện từ nhiệt điện, giá bán điện nhập khẩu dẫn đến những thắc mắc của doanh nghiệp trong xác định giá tính thuế tài nguyên đối với trường hợp này.

Thứ năm: Thuế suất

Về cơ bản quy định hiện nay về khung thuế suất trong biểu thuế tài nguyên và mức thuế tài nguyên cụ thể cho giai đoạn hiện nay nhìn chung khá ổn, hợp lý với thực tiễn tiến hành các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực hiện đã nảy sinh một số vấn đề liên quan đến quy định về mức thuế suất thuế tài nguyên. Cụ thể quá trình áp dụng Thuế tài nguyên đã cho thấy hạn chế về mặt thuế suất đối với các tài nguyên sau:

– Biểu mức thuế suất thuế tài nguyên ban hành kèm theo Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 còn có những loại quy định theo mục đích sử dụng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc xác định và áp dụng thuế suất tính thuế tài nguyên. 

– Thuế suất đá hoa trắng so với giá trị của loại tài nguyên này là khá thấp, sau khi được đề nghị đã điều chỉnh tăng năm 2013 so với 2010 từ 6% lên 9%. Tuy nhiên, mức thuế suất đối với đá hoa trắng vẫn còn thấp, kể cả trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh kịch khung lên mức 15%. Bên cạnh giá trị kinh tế cao, đá hoa trắng còn là loại tài nguyên rất quý hiếm mà ở Việt Nam chỉ có ở Yên Bái và Nghệ An. Bởi vậy, rất cần có điều tiết hợp lý để khuyến khích sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên này và chống thất thu tiềm năng đối với loại tài nguyên này.

– Fenspat hiện đang được xếp cùng nhóm thuế suất với “thạch anh tinh thể màu tím xanh, vàng lục, da cam; cờ-ri-ô-lít [cryolite]; ô-pan [opan] quý màu trắng, đỏ lửa; birusa; nê-phờ-rít [nefrite]” với mức thuế suất hiện hành 15% là không hợp lý vì trên thực tế có 2 loại fenspat khác nhau. Một loại fenspat có chất lượng thấp dùng làm vật liệu xây dựng [gạch men]. Một loại fenspat có chất lượng tốt hơn dùng làm các loại vật liệu cao cấp. Giá bán của hai loại fenspat này cũng chênh lệch rất nhiều [loại chất lượng thấp giá chỉ dao động khoảng 200.000 đồng/tấn; loại chất lượng tốt hơn có giá khoảng trên 1 triệu đồng/tấn].

– Hiện nay các loại quặng Apatit chỉ có chung một khung thuế suất. Thực tế sản xuất lượng quặng Apatit 1, 2 khai thác ra có thể tiêu thụ được ngay đã gần hết, trữ lượng quặng Apatit còn chủ yếu là quặng 3. Như vậy nếu mức thuế suất tính chung cho các loại quặng là hết sức khó khăn cho công tác chế biến sâu, tiết kiệm tài nguyên của doanh nghiệp. 

Như vậy có thể thấy việc triển khai thực hiên pháp luật về thuế tài nguyên thời gian qua đã góp phần đem lại một nguồn thu nhất định cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế và bất cập trong các quy định dẫn đến gây khó khăn cho việc triển khai áp dụng chính sách thuế tài nguyên trong thực tế. Do đó, việc cần thiết phải rà soát, nghiên cứu, sửa đổi và quy định thêm nhiều quy định khác về nội dung của pháp luật thuế tài nguyên là việc rất quan trọng hiện nay nhằm đảm bảo đóng góp số thu hợp lý cho ngân sách nhà nước và các tài nguyên thiên nhiên được sử dụng một cách có hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

12.3. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên

Trên cơ sở thực trạng nêu trên, để hoàn thiện quy định về thuế tài nguyên theo hướng vừa đảm bảo thu đủ nguồn thu, vừa khuyến khích hoạt động khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thì cần thiết phải nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thuế tài nguyên, tính đồng bộ trong hệ thống chính sách tác động đến thu thuế từ các nguồn tài nguyên, cơ chế quản lý, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng sản xuất…từ đó mới có được những giải pháp phù hợp. Theo đó, có thể đề cập đến một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên như sau:

Thứ nhất: Về đối tượng nộp thuế

 Cần thống nhất thực hiện người được phép khai thác tài nguyên phải nộp thuế theo quy định của Luật Thuế tài nguyên. Nếu khai thác nhỏ lẻ không nộp thuế được thì người mua gom phải nộp thay, đảm bảo đúng đối tượng khai thác là người nộp thuế, nhằm tăng cường quản lý, tránh trốn thuế.

Đảm bảo việc khai thác khoáng sản được thực hiện bởi đơn vị có đủ năng lực về khai thác, quản lý hoạt động và môi trường khai thác khoáng sản, tăng cường quản lý để ngăn ngừa hiện tượng chuyển giá.

Thứ hai: Về đối tượng chịu thuế tài nguyên

Cần tiếp tục rà soát lại cách xác định đối tượng chịu thuế tài nguyên từ quá trình quản lý thu thuế, giữa các hệ thống pháp luật điều chỉnh về tài nguyên khoáng sản, làm rõ về một số loại tài nguyên trong đối tượng chịu thuế để tránh xung đột pháp luật và phù hợp với tính chất, giá trị sử dụng của tài nguyên, tăng thu NSNN.

Nghiên cứu sửa đổi các quy định của Luật Thuế tài nguyên đồng bộ với Luật Khoáng sản và Luật Tài nguyên nước.

Nghiên cứu bổ sung một số loại tài nguyên có giá trị kinh tế cao vào đối tượng chịu thuế. Cần rà soát lại danh mục các loại quặng quý hiếm, không xếp fenspat vào nhóm này.

Thứ ba: Về sản lượng tài nguyên tính thuế

Cần nghiên cứu cơ chế chính sách về thuế tài nguyên đối với tài nguyên đã qua chế biến, quy định những căn cứ cụ thể để phân biệt sản phẩm đã qua chế biến vẫn ở dạng nguyên, hoặc đã thành sản phẩm khác, để xác định sản lượng và giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác và sản phẩm khác chế biến từ tài nguyên khai thác cho đồng bộ với chính sách hiện hành nhằm khuyến khích chế biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên trong nước.

Cần tăng cường quản lý sản lượng tài nguyên khai thác từ khâu cấp phép, cho đến quá trình tổ chức khai thác, tiêu thụ để chống thất thoát, trốn sản lượng tính thuế. Để làm được cần phải có sự phối hợp các ngành liên quan ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp.

Cần có quy định thống nhất về nguyên tắc quy đổi sản lượng tính thuế theo tỷ lệ để xác định sản lượng của loại tài nguyên khai thác để thống nhất giữa áp dụng giữa các địa phương.

Thứ tư: Về giá tính thuế tài nguyên

Giá tính thuế là giá bán tài nguyên tại nơi khai thác để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và thực hiện thống nhất để hạn chế việc đánh trùng thuế đối với tài nguyên vận chuyển đi tiêu thụ phát sinh các chi phí vận chuyển.

 Đối với tài nguyên xuất khẩu đã qua chế biến, sơ chế thì cần nghiên cứu hướng dẫn áp dụng giá tính thuế thống nhất nguyên tắc xác định giá tính thuế ở thuế GTGT.   

Đối với tài nguyên khoáng sản kim loại, phi kim loại: Giá tính thuế là giá bán tài nguyên khai thác; Trường hợp qua chế biến, mới bán ra thì được trừ chi phí ở khâu chế biến khỏi giá bán để tính thuế hoặc áp dụng giá tính thuế do UBND cấp tỉnh tại nơi khai thác quy định để tính thuế tài nguyên. Việc xác định giá tính thuế này cũng được áp dụng đối với tài nguyên xuất khẩu để không đi ngược lại chính sách khuyến khích chế biến sâu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên dạng thô.

Đối với quặng Apatit loại 3 là loại quặng nghèo khai thác ra không bán được ngay, mà phải đưa vào tuyển với chi phí tuyển rất cao, sau khi tuyển hàm lượng P2O5 tăng lên tương đương quặng loại 1 thành phẩm. Quặng tuyển từ quặng 3 chủ yếu sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân bón phục vụ nền nông nghiệp.Vì vậy, để giảm giá thành cho sản xuất phân bón phục vụ nền nông nghiệp và mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực thì cần có quy định riêng về chi phí được trừ để xác định giá tính thuế tài nguyên đối với sản xuất quặng Apatit tuyển từ nguyên liệu quặng Apatit loại 3.

Thứ năm: Về thuế suất thuế tài nguyên

Theo quy định khung thuế suất thấp nhất từ 1% đến 35% được tính trên giá bán tài nguyên. Có nghĩa là mức điều tiết tỷ lệ % trên doanh thu bán tài nguyên, quy định này sẽ làm giảm thu nhập tương ứng với số thuế tài nguyên phải nộp. Đối với loại khoáng sản có mức thuế suất cao thì sẽ tác động đáng kể đến doanh thu, chi phí, giá thành và thu nhập từ khai thác khoáng sản. Do đó, khi tính toán điều chỉnh mức thuế suất, cần phải nghiên cứu đánh giá các khoản thu khác thu trực tiếp đối với các đơn vị khai thác tài nguyên và mức độ tác động đến đơn vị sản xuất, chế biến sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu là tài nguyên và những ảnh hưởng hệ luỵ đến nền kinh tế- xã hội, đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ngành, lĩnh vực của Nhà nước, tình hình kinh tế xã hội hiện nay và khả năng đóng góp của đơn vị khai thác.  

 Không tăng thuế suất với tài nguyên làm vật liệu xây dựng thông thường, đất làm gạch nung, đá vôi sản xuất xi măng do nếu tăng thuế suất sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, xây dựng, kinh doanh bất động sản và đời sống người lao động.

Để khuyến khích sử dụng tiết kiệm tài nguyên không tái tạo, cần xem xét điều chỉnh tăng thuế suất đối với các loại khoáng sản không tái tạo như vàng, sắt, than…Như đá bazan dạng cột có giá trị cao, xẻ ra làm đá ốp lát cao cấp hoặc đá vôi trắng Nghệ An, Yên Bái, là tài nguyên có giá trị kinh tế cao cần được áp dụng thuế suất cao hơn đá vôi thông thường.

Cần phân chia cùng một loại khoáng sản thành các cấp độ khác nhau dựa trên cơ sở tính chất lý hóa để có thể áp dụng mức thuế suất phù hợp. Như loại fenspat chất lượng sử dụng làm vật liệu xây dựng cao cấp thì để ở nhóm thuế suất hiện hành. Loại fenspat chất lượng thấp hơn sử dụng làm vật liệu xây dựng thông thường thì đưa xuống mức thuế suất thấp hơn.

Nên thống nhất nguyên tắc áp dụng thuế suất thuế tài nguyên theo loại tài nguyên, không theo mục đích sử dụng; cần có sự xem xét giảm thuế suất cho các loại tài nguyên khai thác ra không tiêu thụ được ngay. Như hiện nay đang quy định đá vôi khai thác dùng nung vôi, sản xuất xi măng thì cao hơn là xay ra làm vật liệu xây dựng thông thường gây bất công bằng trong việc sử dụng tài nguyên trong các hoạt động sản xuất kinh doanh

Thứ sáu: Về miễn, giảm thuế

Theo Luật Thuế tài nguyên cho phép: “Người nộp thuế tài nguyên gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau”

 Việc miễn thuế trong trường hợp này là chưa phù hợp. Bởi khi thiệt hại tài nguyên do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ đã được cơ quan bảo hiểm chi trả, phần còn lại được trừ vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, việc miễn thuế hoặc hoàn trả tiền thuế tài nguyên đối với sản lượng tài nguyên tổn thất đã khai, nộp thuế là không phù hợp, không khuyến khích khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, tạo sự không công bằng với đơn vị quản lý tốt. Vì vậy không nên miễn giảm thuế trong trường hợp này, đề xuất này cũng đảm bảo tính thống nhất với Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp các thiệt hại này được trừ vào thu nhập tính thuế.

Thứ bảy: Giải pháp khác

Để nâng cao hiệu quả thu thuế tài nguyên thì cần thiết phải bổ sung rõ hơn quy định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường trong xác định sản lượng tài nguyên tính thuế. Cơ chế này cần làm rõ thêm các vấn đề sau: [i] Cách thức phối hợp kiểm tra thực địa tại khai trường giữa cơ quan thuế với cơ quan tài nguyên môi trường; [ii] Trình tự thủ tục để cơ quan tài nguyên môi trường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định sản lượng khai thác thực tế của doanh nghiệp khai khoáng.

Bổ sung cơ chế phối hợp cụ thể để xác định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong quản lý thuế tài nguyên nói riêng và quản lý hoạt động khai thác tài nguyên còn chưa làm rõ trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp, cách thức phối hợp trong những trường hợp cụ thể, trách nhiệm của người đứng đầu…

Như vậy có thể thấy mặc dù các quy định về chính sách thuế Tài nguyên thời gian qua mặc dù đã phần nào thực hiện được mục tiêu tạo nguồn thu và điều tiết hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn còn quá nhiều tồn tại và bất cập trong thực tế ngay cả trong nội tại các quy định về thuế tài nguyên cũng như sự tương đồng với các quy định khác liên quan đến các tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên cho phù hợp hơn. Nhưng cũng cần nhận thức một vấn đề quan trọng là dù chính sách có sửa đổi hoàn hảo đến đâu thì để chính sách có thể phát huy được hiệu quả như mong đợi của các nhà ban hành luật thì cần thiết phải nâng cao ý thức của công dân trong việc sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên,nhất là đối với tài nguyên không tái tạo được, ý thức trong việc cần sống và làm việc theo pháp luật. Có được sự tác động hai chiều như vậy thì hiệu quả thu thuế tài nguyên sẽ đạt hiệu quả cao hơn theo chiều hướng tích cực gắn liền với việc khai thác và sử dụng hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên- nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế của quốc gia.

 ————————-TÀI LIỆU THAM KHẢO———————— 

  1. Tổng cục Thuế, tham luận tại Hội thảo: “Tăng hiệu quả thu ngân sách từ khai thác khoáng sản: Giải pháp nào cho Việt nam?”, 10/10/2014.
  2. Cục thuế Yên Bái, tham luận tại Hội thảo: “Nâng cao hiệu quả thu ngân sách trong khai thác khoáng sản: Từ kinh nghiệm thực tiễn đến các giải pháp chính sách”, 13/05/2016.
  3. Công ty Apatit Việt Nam, tham luận tại Hội thảo: “Nâng cao hiệu quả thu ngân sách trong khai thác khoáng sản: Từ kinh nghiệm thực tiễn đến các giải pháp chính sách”, 13/05/2016.
  4. PGS,TS Lê Xuân Trường, Báo cáo rà soát, đánh giá Luật thuế Tài nguyên tại Hội thảo: “Nâng cao hiệu quả thu ngân sách trong khai thác khoáng sản: Từ kinh nghiệm thực tiễn đến các giải pháp chính sách”, 13/05/2016.
  5. Pháp lệnh 34-LCT/HĐNN8 ngày 30/03/1990 của Hội đồng Nhà nước quy định về thuế Tài nguyên.
  6. Pháp lệnh 07/2008/PL-UBTVQH12 ngày 22/11/2008 của Hội đồng Nhà nước sửa đổi bổ sung Pháp lệnh 34-LCT/HĐNN8 ngày 30/03/1990 của Hội đồng Nhà nước quy định về thuế Tài nguyên.
  7. Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009.
  8. 8. Luật số 71/2014/QH13 Ngày 26/11/2014, sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế.
  9. Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Tài nguyên.
  10. 10. Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế.

11.Thông tư số 105/2010/TT-BTC ngày 23/7/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Tài nguyên và hướng dẫn thi hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thuế Tài nguyên.

  1. 12. Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên thay thế thông tư số 105/2010/TT-BTC.
  2. 13. Thông tư số 12/2016/TT-BTC ngày 20/01/2016 sửa đổi, bổ sung khoản 1, điều 7 Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên.
  3. 14. Thông tư số 174/2016/TT-BTC ngày 28/10/2016 sửa đổi, bổ sung điểm a, khoản 4, điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên.
  4. 15. Thông tư số 36/2016/TT-BTC ngày 26/02/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các tổ chức và cá nhân thực hiện tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí theo quy định của Luật Dầu khí.
  5. Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên thay thế thông tư số 105/2010/TT-BTC.


Video liên quan

Chủ Đề