Trí nhớ là gì trong tâm lý học

1. Khái niệm chung về trí nhớ

Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua.

Cũng như cảm giác và tri giác, trí nhớ cũng là một quá trình tâm lý, song cảm giác và tri giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta, còn trí nhớ là sự phản ánh những sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người. Kinh nghiệm này có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những trải nghiệm hay rung động, những cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng.

Sản phẩm được tạo ra trong quá trình trí nhớ là các biểu tượng.

Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện tượng nảy sinh trong óc ta khi không có sự vật hiện tượng tác động trực tiếp vào giác quan ta.

Biểu tượng chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hoá các hình ảnh của tri giác trước đây Không có tri giác thì không thể có biểu tượng được.

Biểu tượng khác với hình tượng của tri giác ở chỗ: biểu tượng phản ánh sự vật một cách khái quát hơn. Nó phản ánh những dấu hiệu đặc trưng trực quan của sự vật hiện tượng. Như vậy biểu tượng vừa mang tính chất trực quan, vừa mang tính chất khái quát. Nó giống hình ảnh của cảm giác và tri giác ở tính trực quan, nhưng nó cao hơn ở tính khái quát.

Mức độ đúng đắn, sâu sắc và bền vững của trí nhớ một phần phụ thuộc vào nội dung, tính chất của sự vật hiện tượng, tài liệu cần nhớ. Mặt khác còn phụ thuộc vào chủ thể của hoạt động nhớ. Những sự vật hiện tượng, tài liệu có liên quan nhiều tới nhu cầu, hứng thú, tình cảm... của con người, được ghi lại, gìn giữ và nhớ lại sâu sắc, đầy đủ hơn.

Từ định nghĩa về trí nhớ cũng cho thấy trí nhớ là một hoạt động tâm lý phức tạp bao gồm nhiều hành động: ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại. Các hành động nói trên có quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, tạo nên kho tàng trí nhớ của con người.

1.2. Vai trò của trí nhớ

Trong cuộc sống của con người trí nhớ có vai trò rất quan trọng. Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lý bình thường và ổn định. Nhờ có trí nhớ mà con người tích luỹ vốn kinh nghiệm và đem những kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Như vậy không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất cứ một hành động nào, không thể phát triển tâm lý, nhân cách con người. I.M.Xêtrenốp cho rằng trí nhớ là "điều kiện cơ bản của cuộc sống tâm lý" là "cơ sở của sự phát triển tâm lý", "nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh".

Đối với hoạt động nhận thức của con người trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó là công cụ để lưu giữ lại kết quả của các quá trình cảm giác và tri giác, nhờ đó nhận thức phân biệt được cái mới tác động lần đầu tiên và cái cũ đã tác động trước đây để có thể ứng xử thích hợp tức thì với hoàn cảnh sống. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra quá trình nhận thức lí tính [tư duy và tưởng tượng] và làm cho quá trình này đạt được kết quả hợp lí. ở đây trí nhớ đã cung cấp các tài liệu do nhận thức cảm tính thu nhận cho nhận thức lí tính một cách trung thành và đầy đủ.

Như vậy trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người trong mọi lĩnh vực: nhận thức, tình cảm và hành vi, do đó trí nhớ có tính chất quyết định đời sống tâm lý con người, quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Ơ những người bị bệnh hỏng trí nhớ, ta thấy cuộc sống hàng ngày của họ bị rối loạn, không bình thường, họ không có khả năng suy nghĩ, sáng tạo hay dự kiến tương lai trên cơ sở những hiểu biết và kinh nghiệm đã có.

Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và sự diễn biến của các quá trình lí hoá trong vỏ não và phần dưới vỏ. Những đường liên hệ thần kinh tạm thời đó được củng cố tương đối vững chắc nhờ có sự lặp đi lặp lại nhiều lần và có thời gian nhất định để củng cố. Khi ta nhớ lại, nhận lại một sự vật, hiện tượng nào đó cũng có nghĩa là ta đã phục hồi những đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập trước đây Sự hình thành và giữ gìn các đường liên hệ tạm thời, sự dập tắt và làm sống lại chúng chính là cơ sở sinh lí của các liên tưởng, của trí nhớ. I.P. Paplốp đã viết: "Đường liên hệ thần kinh tạm thời là một hiện tượng sinh lí phổ cập trong thế giới động vật và cả trong bản thân chúng ta. Đồng thời nó cũng là hiện tượng tâm lý cái mà các nhà tâm lý gọi là liên tưởng" [I.P. Paplôp toàn tập-trang 325].

Trí nhớ là một quá trình phức tạp, cho đến nay chưa có một lí thuyết thống nhất về cơ chế của trí nhớ, trong đó thuyết tế bào thần kinh được nhiều nhà khoa học quan tâm. Thuyết này cho rằng các tế bào thần kinh tạo thành những chuỗi và theo những chuỗi đó các luồng điện sinh học chạy tuần hoàn. Do ảnh hưởng của các luồng điện sinh học này mà xảy ra những biến đổi trong các xnáp [nơi tiếp nối giữa các tế bào thần kinh], điều này làm dễ dàng cho sự đi qua tiếp theo của những luồng điện sinh học theo các con đường đó. Tính chất khác biệt của các chuỗi tế bào thần kinh [nơron] tương ứng với các thông tin được củng cố.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Tác giả: Nguyễn Xuân Thức [Chủ biên] - Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Văn Thạc - Trần Quốc Thành - Hoàng Anh - Lê Thị Bừng - Vũ Kim Thanh - Nguyễn Kim Quý - Nguyễn Thị Huệ - Nguyễn Đức Sơn
  • Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007

Các quá trình cơ bản của trí nhớ

Mỗi quá trình này có một chức năng xác định, nhưng chúng không đối lập với nhau mà phụ thuộc vào nhau [ghi nhớ, giữ gìn tốt thì mới tới hiện tốt], thâm nhập vào nhau, chuyển hoá cho nhau [khi tái hiện đồng thời có tác dụng củng cố].

Quá trình ghi nhớ

Ghi nhớ là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động nhớ. Đó là quá trình tạo nên dấu vết [“ấn tượng”] của đối tượng trên vỏ não, đóng thời cũng là quá trình gắn đối tượng đó với những kiến thức đã có. Quá trình ghi nhớ rất cần thiết để tiếp thu tri thức, tích lũy kinh nghiệm.

Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung, tính chất của tài liệu nhớ mà còn phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân. Nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự ghi nhớ và hoạt động đã khẳng định rằng, sự ghi nhớ một tài liệu nào đó là kết quả của hành động với tài liệu đó, đồng thời nó là điều kiện, phương tiện để thực hiện các hành động tiếp theo.

Có nhiều hình thức ghi nhớ. Căn cứ vào mục đích ghi nhớ, người ta chia ghi nhớ thành ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định.

Ghi nhớ không chủ định: là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc không dùng một thủ thuật nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên. Tuy nhiên, không phải mọi sự kiện, hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Mức độ ghi nhớ phụ thuộc vào sự hấp dẫn của nội dung tài liệu. Nếu nội dung tài liệu có khả năng tạo ra sự tập trung chú ý cao độ hay một xúc cảm mạnh mẽ thì sự ghi nhớ sẽ đạt hiệu quả cao. Do vậy, trong dạy học, nếu giáo viên tạo ra được ở học sinh động cơ học tập đúng đắn, có hứng thú sâu sắc đối với môn học thì học sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ tài liệu một cách không chủ định, việc học tập trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn.

  • Ghi nhớ có chủ định: là loại ghi nhớ theo một mục đích đặt ra từ trước, đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định và cần có những thủ thuật, phương pháp nhất định để đạt được mục đích ghi nhớ. Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc rất nhiều vào động cơ, mục đích ghi nhớ. Trong ghi nhổ có chủ định, việc sử dụng phương pháp hợp lý là một điều kiện rất quan trọng để đạt hiệu quả cao.

Thông thường có hai cách ghi nhớ có chủ định: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa.

  • Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản, tạo ra mối liên hệ bên ngoài giữa các phần của tài liệu ghi nhớ, không còn thông hiểu nội dung tài liệu. Cách ghi nhớ này thường tìm mọi cách dựa vào trí nhớ tốt có những gì có trong tài liệu một cách chính xác và chi tiết. Nhưng do không dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu nên trong trí nhớ chứa toàn tài liệu không liên quan gì với nhau. “Học vẹt” là một biểu hiện cụ thể của cách ghi nhớ này, trí nhớ có thể được chất đầy tài liệu nhưng không có ích.

Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự ghi nhớ một cách hình thức, tổn nhiều thời gian, khi quên khó có thể hồi tưởng được. Tuy nhiên, trong cuộc sống, ghi nhớ máy móc có lúc lại cần thiết, nhất là khi ghi nhớ tời liệu không có nội dung khái quát như số nhà, số điện thoại, ngày tháng năm sinh…

Ghi nhớ ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu, trên sự nhận thức được mối liên

hệ logic giữa các bộ phận của tài liệu đó. Tức là ghi nhớ tài liệu trên cơ sở hiểu bản chốt của nó. Ở đây, quá trình ghi nhớ gắn liền với quá trình tư duy và tưởng tượng nhằm nắm lấy logic nội tại [bàn chất] của tài liệu. Do vậy, người ta còn gọi ghi nhớ ý nghĩa là ghi nhớ logic.

Ghi nhớ ý nghĩa là loại ghi nhớ chủ yếu trong hoạt động nhận thức, nó đảm bảo cho sự lĩnh hội tri thức một cách sâu sốc, bền vững. Loại ghi nhớ này tốn ít thời gian hơn ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn.

Quá trình giữ gìn

Giữ gìn lờ quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Nếu không có sự giữ gìn [củng cố] thì không thể nhớ bền, nhó chính xác được. Do vậy, “văn ôn võ luyện” là rất cần thiết để gìn giữ tài liệu trong trí óc. Có hai hình thức giữ gìn: tiêu cực và tích cực.

  • Giữ gìn tiêu cực là loại giữ gìn dựa trên sự tái hiện lặp đi lặp lại nhiều lần một cách giản đơn tài liệu cần nhớ thông qua những mối liên hệ bề ngoài giữa các phần tài liệu nhớ đó.
  • Giữ gìn tích cực là sự giữ gìn được thực hiện bằng cách tái hiện trong óc tài liệu đã ghi nhớ mà không cán

phải tri giác tời liệu đó.

Quá trình tái hiện

Tái hiện là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi nhổ và giữ gìn. Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng [“tự động”] hoặc rất khó khăn [phải nỗ lực nhiều]. Tài liệu thường được tái hiện dưới ba hình thức: nhộn lại, nhớ lại và hỏi tường.

  • Nhận lại: là hình thức tái hiện khi sự tri giác đối tượng được lợp lại. Sự nhận lại cũng có thể không đầy đủ và do đó không xác định [ví dụ: Khi ta gộp một người mà ta biết chắc đó là người quen, nhưng ngay lúc đó ta không thể nhớ tên người đó là gì; hoặc ta nhận ra người quen, biết tên người đó, nhưng lại không nhớ ra đã làm quen vào lúc nào, ở đâu]. Do vậy, không nên lấy nhận lại làm tiêu chuẩn đánh giá trí nhớ con người.

Trong nhận lại đổi khi đòi hỏi những quá trình rất phức tạp để đạt tới một kết quả xác định [chẳng hạn, phải dựa vào một đối tượng đã biết đề tưởng tượng lại những cái có liên quan, dần dần ta nhớ chính xác cái ta cần], ở đây, sự nhận lại chuyển sang sự nhớ lại.

  • Nhớ lại: là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác đối tượng. Đó là khả năng làm sống lại hình ảnh của sự vật, hiện tượng đã được ghi nhớ trước đây. Nhớ lại tự nó không diễn ra, mà bao giờ cũng có nguyên nhân, theo quy luật liên tưởng, mang tính logic chặt chẽ và có chủ định. Nhớ lại thường có hai dạng: không chủ định và có chủ định.
  • Nhớ lại không chủ định: là sự nhớ lại một cách tự nhiên [chợt nhớ hay sực nhớ] một điều gì đó, khi gộp một hoàn cảnh cụ thể, không cần phải xác định nhiệm vụ cần nhớ lại.
  • Nhớ lại có chủ định: là nhớ lại một cách tự giác, đòi hỏi phải có một sự cố gắng nhất định, chịu sự chi phối của nhiệm vụ nhớ lại, đôi khi phải có sự cố gắng rất nhiều mới có thể nhớ lại được những điều cần thiết. Một sự tái hiện như vậy được gọi là hồi tưởng.

Hồi tưởng là hình thức tái hiện đòi hỏi sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ. Đây là một hành động trí tuệ phức tạp, kết quả của nó phụ thuộc vào việc cá nhãn ý thức rõ ràng, chính xác đến mức nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện.

Trong sự hồi tưởng, những ấn tượng trước dãy không được tái hiện một cách máy móc, mò thường được sắp xếp khác đi, gắn liền với những sự kiện mới.

Sự quên

Không phải mọi dấu vết, ấn tượng trong não của con người đều được giữ gìn và làm sống lại một cách như nhau, nghĩa là trong trí nhớ của con người có hiện tượng quên.

Quẻn là không tái hiện được nội dung đã ghi nhớ trước đày vào thời điểm nhất định.

Quên cũng có nhiều mức độ: quên hoàn toàn [không nhớ lại, không nhận lại dược], quên cục hộ [không nhớ lại, nhưng nhận lại dược]. Nhưng ngay cả quên hoàn toàn cũng không có nghĩa là các dấu vết ghi nhớ đổ hoàn toàn mất đi, không đề lại dấu vết nào. Trong thực tế, nó vẫn còn lại dấu vết nhất định trên vỏ não, chỉ có điều con người không làm cho nó sống lại khi cần thiết mà thôi.

Ngoài ra còn có hiện tượng quên tạm thời, nghĩa là trong thời gian dài không thể nào nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được. Đó là hiện tượng sực nhớ.

Nguyên nhân của sự quên.

Thuộc về sức khỏe:

Có thể do quá trình ghi nhớ, có thể do các quy luật ức chế hoạt động thần kinh [ức chế ngược, ức chế xuôi, ức chế tới hạn]

Nguyên nhân khách quan:

Trong quá trình ghi nhớ và do không gắn được vào hoạt động hằng ngày, không phù hợp với nhu cầu, hứng thú, sở thích cá nhân hoặc ít có ý nghĩa thực tiễn đổi với cá nhân.

Nguyên nhân chủ quan:

Không sử dụng thường xuyên => không củng cố hàng ngày hoặc ít sử dụng. Quên khi gặp kích thích mạnh hoặc mới lạ. Khi ghi nhớ máy móc.

Quy luật của sự quên

  • Thường quên những gì diễn ra không thường xuyên trong đời sống.

Ví dụ: tổ trưởng nhắc Lan đi họp nhóm vào sáng thứ 2 tuần kế tiếp tuần đang học. vì cuộc họp nhóm diễn ra không thường xuyên và cố định vào các tuần nên Lan thường xuyên quên.

  • Sự quên diễn ra với tốc độ không đều, giai đoạn đầu tốc độ quên nhanh sau đó chậm dần.

Ví dụ: khi bạn học năm mươi từ mới tiếng anh. Lần đầu tiên học qua một lượt bạn nhớ được khoảng năm đến mười từ.sau vài lần tiếp theo số từ bạn nhớ được tăng lên dần dần và đạt tới năm mươi từ như đã đặt ra.

  • Quên diễn ra theo trình tự, quên cái tiểu tiết trước cái đại thể chính yếu quên sau.

Ví dụ: khi đọc song một câu chuyện dài chúng ta sẽ nắm rõ được cốt truyện và một số ý phụ. Theo thời gian chúng ta sẽ quên câu chuyện ấy nhưng chúng ta sẽ quên ý phụ trước, cốt truyện quên sau.

  • Quên khi gặp kích thích lạ, kích thích mạnh, ấn tượng.

Ví dụ: Hoa đang có trí nhớ rất bình thường. Nhưng do mẹ Hoa mất đột ngột – đây là một tác động mạnh gây sốc cho Hoa. Sau đó Hoa gần như quên hết mọi chuyện trước đó.

  • Quên phụ thuộc vào mục đích ghi nhớ, độ dài, nội dung, độ khó của tài liệu

Ví dụ: khi đọc một bài thơ chữ hán và một bài thơ lục bát. Thì ta dễ thuộc bài thơ lục bát hơn vì thơ lục bát có vần điệu, ngôn từ dễ hiểu, nội dung dễ nắm bắt.

Biện pháp để chống sự quên. 

Phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, có hứng thú, say mê, và ý thức được tầm quan trọng của tài liệu ghi nhớ, xác định được tâm thế ghi nhớ tài liệu lâu dài đối với tài liệu.

Phải lựa chọn, phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý, phù hợp với tính chất, nội dung của tài liệu với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ. Ghi nhớ logic là hình thức ghi nhớ tốt nhất trong học tập. Để ghi nhớ tốt đòi hỏi người học tập phải lập dàn bài cho tài liệu học, tức là tìm ra những đơn vị logic cấu tạo nên tài liệu đó. Dàn ý này được xem là điểm tựa để ôn tập và tái hiện tài liệu khi cần thiết.

Phối hợp nhiều giác quan khi ghi nhớ, sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ tài liệu, gắn tài liệu ghi nhớ với vốn kinh nghiệm bản thân.

Làm thế nào để giữ gìn [ôn tập] tốt?

  • Phải ôn tập một cách tích cực, nghĩa là ôn tập bằng cách tái hiện là chủ yếu việc tái hiện tài liệu có thể tiến hành theo trình tự sau:
  • Cố gắng tái hiện toàn bộ tài liệu một lần.
  • Tiếp đó tái hiện phần, đặc biệt là những phần khó.
  • Sau đó lại tái hiện toàn bộ tài liệu.
  • Phân chia tài liệu thành những nhóm yếu tố cơ bản của nó.
  • Xác định mối liên hệ trong mỗi nhóm.
  • Xây dựng cấu trúc logic của tài liệu dựa trên mối liên hệ giữa các nhóm.
  • Phải ôn tập ngay, không để lâu sau khi ghi nhớ tài liệu.
  • Phải ôn tập xen kẽ, không nên ôn tập liên tục một môn học.
  • Ôn tập phải có nghỉ ngơi, không nên ôn tập liên tục trong một thời gian dài.
  • Cân thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập.

Video liên quan

Chủ Đề